Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một khi thương vụ bị đổ bể.
Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của trọng tài thì phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tiễn trên, em đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài và thực tiễn” làm đề tài cho niên luận của mình.
30 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2329 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một khi thương vụ bị đổ bể.
Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của trọng tài thì phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tiễn trên, em đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài và thực tiễn” làm đề tài cho niên luận của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài.
Niên luận hướng tới mục đích là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành về phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện hơn pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Niên luận chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài, cụ thể được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 và Luật trọng tài thương mại 2010 (LTTTM 2010) (hiệu lực 01/01/2011).
4. Bố cục của niên luận
Phần mở đầu
Phần nội dung
Chương 1: Khái quát về tranh chấp kinh doanh - thương mại, trọng tài thương mại và giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài
Chương 2: Một số bất cập trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài và đề xuất kiến nghị giải quyết
Phần kết luận.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI, TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh - thương mại
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh - thương mại
Tranh chấp kinh doanh hay còn gọi là tranh chấp thương mại là những thuật ngữ hay được sử dụng ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại được sử dụng thay thế cho khái niệm tranh chấp "kinh tế" trước đây.
Nhìn chung, "tranh chấp kinh tế" và "tranh chấp kinh doanh thương mại" đều được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình xác lập và giải quyết các quan hệ kinh tế hoặc kinh doanh thương mại.
Theo quan điểm hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, kéo theo sự đa dạng về đối tượng chủ thể và lợi ích cần bảo vệ, hoạt động kinh doanh thương mại ngày càng đa dạng, không ngừng phát triển trong tất cả mọi lĩnh vực kinh doanh sản xuất, thương mại dịch vụ. Vì vậy, tranh chấp kinh doanh, thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam phát sinh nhiều dạng tranh chấp mới, có những biểu hiện đa dạng về nội dung và mức độ khác nhau.
Có thể nói, sự thay đổi về nội dung và hình thức các tranh chấp kinh doanh, thương mại trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế mới đã và đang đòi hỏi các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại phải được xây dựng trên cơ sở các nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Từ những nội dung trên, "tranh chấp kinh doanh thương mại" được hiểu là những xung đột, bất đồng về quyền, lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại [4,tr.42].
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại
Thứ nhất, nội dung của những tranh chấp luôn là những mâu thuẫn về các lợi ích kinh tế, tài sản. Điều đó là do mục đích cơ bản của mọi hoạt động kinh doanh là sinh lời và đối tượng đầu tư cũng như cái mà người kinh doanh nhằm đạt được sau quá trình đầu tư đều là tài sản.
Thứ hai, chủ thể của các quan hệ phát sinh tranh chấp đều là những người kinh doanh. Những người kinh doanh có tâm lý mong muốn xác định quan hệ ổn định, lâu dài trên cơ sở hợp tác, tin cậy lẫn nhau. Mỗi bên đều có mục đích tối đa lợi ích kinh tế khi tham gia các quan hệ kinh doanh và trong quan hệ này, nghĩa vụ của chủ thể này là quyền tương ứng của chủ thể kia. Vì thế, các tranh chấp phát sinh sẽ đe dọa ảnh hưởng xấu đến mục đích và hiệu quả hoạt động của các doanh nhân trong điều kiện lợi ích kinh tế của các bên phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau.
Thứ ba, những tranh chấp kinh doanh thương mại phát sinh, phát triển gắn liền với các hoạt động kinh doanh. Hoạt động kinh doanh vốn rất đa dạng, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật và yếu tố riêng của thị trường, chẳng hạn như quy luật cung cầu, sự biến đổi không ngừng của giá cả...
1.1.3. Yêu cầu giải quyết tranh chấp trong thương mại
Một là, tranh chấp phải được giải quyết một cách kịp thời, khẩn trương để có thể áp dụng được những cơ hội kinh doanh, loại trừ những rủi ro từ tác động của thị trường.
Hai là, phải đảm bảo những bí mật của hoạt động kinh doanh cũng như uy tín của các bên trong quan hệ tranh chấp.
Ba là, việc giải quyết tranh chấp phải có chi phí hợp lý về thời gian, cơ hội và chi phí về tiền bạc. Mỗi bên đều có quyền cân nhắc, so sánh những cái được và những chi phí phải bỏ ra để giải quyết tranh chấp, lợi ích kinh tế và sự ổn định quan hệ kinh doanh để từ đó lựa chọn phương thức và đưa yêu cầu giải quyết tranh chấp.
1.1.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại
Các phương thức để giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bao gồm: Thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án.
1.1.4.1. Thương lượng
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại mà không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thống nhất thỏa thuận để tự giải quyết các bất đồng.
Phương thức này đã từ lâu được giới thương nhân ưa chuộng vì nó đơn giản lại không bị ràng buộc bởi những thủ tục pháp lý phiền phức, ít tốn kém hơn và điều quan trọng, nó không làm phương hại đến quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên trong kinh doanh cũng như giữ được bí mật kinh doanh của các bên.
Thương lượng đòi hỏi trước hết các bên phải có thiện chí, trung thực, hợp tác và có đầy đủ những kiến thức, am hiểu về chuyên môn và pháp lý. Thương lượng thật sự đã trở thành quá trinh trao đổi, bày tỏ ý chí giữa các bên để tìm giải pháp thích hợp nhất.
1.1.4.2. Hòa giải
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại mà trong đó các bên trong quá trình thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba độc lập do hai bên cùng chấp nhận hay chỉ định làm vai trò trung gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết xung đột, bất đồng để chấm dứt các tranh chấp phát sinh giữa các bên tham gia quan hệ.
Hòa giải là giải pháp mang tính chất tự nguyện tùy thuộc vào sự lựa chọn của các bên. Đặc biệt là bên thứ ba với tính chất trung gian hòa giải phải có vị trí độc lập với các bên. Điều đó thể hiện rõ bên thứ ba không ở vị trí xung đột lợi ích với các bên hoặc không có những lợi ích gắn liền với lợi ích của một trong các bên trong các vụ việc đang có tranh chấp. Bên thứ ba tham gia làm trung gian hòa giải thường là những cá nhân, tổ chức có trình độ chuyên môn cao và có kinh nghiệm về những vụ việc có liên quan đến các vụ việc phát sinh. Công việc của bên thứ ba là: Xem xét, phân tích, đánh giá và đưa ra những ý kiến, nhận định, bình luận về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ để các bên tham khảo, lựa chọn và quyết định.
1.1.4.3. Trọng tài
Trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
Trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.1.4.4. Tòa án
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền lực Nhà nước, được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ. Bản án hoặc phán quyết của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sự cưỡng chế của Nhà nước.
Ở nước ta, tranh chấp thương mại chủ yếu thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa kinh tế. Tố tụng giải quyết tranh chấp thuộc tố tụng dân sự. Tố tụng dân sự hiện hành được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự đã được Quốc hội thông qua ngày 15/06/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2005.
1.2. Khái quát về trọng tài thương mại
1.2.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công”.
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”.
Theo khoản 1 Điều 3 LTTTM 2010 quy định: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này".
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc độ:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
Thứ hai, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.2.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài.
Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ.
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp.
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài có những đặc điểm sau:
Một là, trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại.
Hai là, quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có mà xuất phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài.
Ba là, phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thỏa thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như tòa án nên phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước.
Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên đương sự lựa chọn.
1.2.3. Một số ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại
Thứ nhất, so với tòa án, trọng tài có những ưu điểm nổi bật như: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên; đảm bảo được bí mật kinh doanh của các bên nhờ nguyên tắc "xét xử kín"; quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị trong khi bản án, quyết định của tòa án có thể phải trải qua nhiều thủ tục xem xét khác nhau, điều này giúp tiết kiệm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các bên tranh chấp; quyết định trọng tài được thi hành ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về hàng hóa, tiền bạc của các nhà kinh doanh. Ngoài ra, trọng tài còn có rất nhiều ưu điểm khác như: tính chuyên môn cao; thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản... đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh chóng của các đương sự.
Thứ hai, trọng tài có những ưu điểm vượt trội mà thương lượng, hòa giải không có, như: Trọng tài luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh, trong đó Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 được coi là trung tâm, và trong thời gian tới sẽ có thêm LTTTM 2010 điều chỉnh; trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý của tòa án, trong khi đó hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống...
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhưng phương thức trọng tài vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, đó là:
So với tòa án, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên các bên khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như ở tòa án; do việc giải quyết tại trọng tài đã có sự xuất hiện của bên thứ ba nên việc giữ bí mật của vụ tranh chấp không thể bằng thương lượng; chi phí để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là khá cao, điều này cũng là một hạn chế lớn vì không phải chủ thể nào cũng có thể đáp ứng được...
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tuy có một số hạn chế, song với những ưu điểm nổi trội của nó, có thể khẳng định đây là phương thức giải quyết đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp.
1.2.4. Các hình thức tổ chức trọng tài
1.2.4.1. Trọng tài vụ việc (trọng tài ad - hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp; trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng; trọng tài vụ việc không có Quy tắc tố tụng riêng, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp nên Quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp được các bên thỏa thuận xây dựng.
1.2.4.2. Trọng tài thương trực
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài do các trọng tài viên lập ra để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Tóm lại, trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực là hai hình thức trọng tài được sử dụng phổ biến trên thế giới. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm và hạn chế riêng bắt nguồn từ chính bản chất của nó. Tùy từng vụ việc cụ thể, các bên tranh chấp sẽ quyết định hình thức trọng tài nào là phù hợp hơn để giải quyết tranh chấp cho mình.
1.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành
1.3.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Theo quy định tại Điều 4 LTTTM 2010 ( hiệu lực từ 01/01/2011) có 5 nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài, cụ thể:
Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà LTTTM 2010 đặt ra đều nhằm mục đích giúp các bên tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết tối ưu cho các doanh nghiệp.
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại
Về nguyên tắc, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đều thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Nghĩa là, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại khi có đủ hai điều kiện:
1.3.2.1. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
Khoản 1 Điều 16 LTTTM 2003 quy định: " Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng ".
Khoản 2 Điều 16 của Luật này cũng có quy định: "Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản ". Ngoài ra, một số hình thức thỏa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như: telegram, fax, telex, thư điện tử; thỏa thuận thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; thỏa thuận được luật sư, công chứng viên ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu, các văn bản thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty...; và một số hình thức thỏa thuận khác mà pháp luật cho phép.
1.3.2.2. Tranh chấp được gửi đến trọng tài thương mại phải là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại
Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại, cụ thể: "Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hanh vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại, ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật".
1.3.3. Trình tự giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
1.3.3.1. Nộp đơn và thụ lý đơn
Khoản 1 Điều 30 LTTTM 2010 có quy định: "trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn".
Đơn kiện phải chứa đựng các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật này.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng xét xử ra quyết định trọng tài. "Nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắ