Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng từ đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một khi thương vụ bị đổ bể.
Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của trọng tài thì phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tiễn trên, em đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
66 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2153 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam đề xướng từ đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Với những quy định của pháp luật hiện hành đã góp phần giải quyết các tranh chấp trong quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, việc lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp một khi thương vụ bị đổ bể.
Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt trội của trọng tài thì phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa chọn, đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực tiễn trên, em đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận hướng tới mục đích là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến nghị để hoàn thiện hơn pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài, cụ thể được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, trên cơ sở có sự so sánh với pháp luật trọng tài của một số nước trên thế giới.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại.
Chương 2: Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
Chương 3: Những bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
1. Trọng tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về trọng tài.
Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không cần đưa ra pháp luật hay đình công”.
Hay: “Trọng tài là những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch quyết định và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai bên” [39, tr.360].
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” [30, tr.3].
Theo khoản 1 điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.
Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc độ:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên.
Thứ hai, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các bên, đưa ra phán quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên.
Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó quy định.
Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp. Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp của yếu tố thỏa thuận (các đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh chấp, cách thức giải quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là sự kết hợp của yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên).
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài có những đặc điểm sau:
Một là, trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên, không hoạt động bằng ngân sách Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là các viên chức Nhà nước, không do Nhà nước bổ nhiệm và cũng không hưởng lương từ ngân sách. Khi xét xử trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra phán quyết.
Hai là, quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có mà xuất phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Chính các chủ thể tranh chấp, với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân danh ý chí tối cao của chủ thể tranh chấp mà không nhân danh quyền lực Nhà nước.
Ba là, phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự thỏa thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm quyền xét xử. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như tòa án nên phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực Nhà nước. Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ chế cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để cưỡng chế thi hành.
Như vây, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên đương sự lựa chọn.
1.3. Một số ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài được xem như là một phương thức giải quyết tranh chấp được ưa chuộng nhất, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh thương mại bởi trọng tài không những khắc phục được những nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng, hòa giải, tòa án mà còn có khả năng phát huy tối ưu những ưu điểm của các phương thức đó.
Một số ưu điểm của trọng tài thương mại.
Thứ nhất, so với tòa án - cơ quan tài phán công, trọng tài có những ưu điểm nổi bật sau:
Trước tiên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa quyền tự do thỏa thuận của các bên. Khác với tòa án, trọng tài không bị ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh thổ nên các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình, bất kỳ họ ở đâu, trong nước hay ngoài nước đồng thời các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn, nghiệp vụ; lựa chọn quy tắc, thủ tục tố tụng; lựa chọn ngôn ngữ, thời gian, địa điểm... giải quyết tranh chấp.
Các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn e ngại rằng tranh chấp liên quan tới bí mật thương mại, các khiếm khuyết của hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ bị xét xử dưới sự theo dõi của công luận vì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến công việc kinh doanh của họ trong tương lai. Song với nguyên tắc “xét xử kín”, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ giúp các bên tách rời khỏi sự chú ý của công luận, đảm bảo bí mật của tranh chấp.
Một ưu điểm nữa của phương thức trọng tài là quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị, trong khi bản án, quyết định của tòa án có thể phải trải qua nhiều thủ tục xem xét khác nhau (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm). Điều này giúp tiết kiệm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các bên tranh chấp. Quyết định trọng tài được thi hành ngay (trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra phán quyết) đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về hàng hóa, tiền bạc của các nhà kinh doanh.
Ngoài ra, trọng tài còn có rất nhiều ưu điểm khác như: tính chuyên môn cao (trọng tài thường là những chuyên gia có trình độ cao về từng lĩnh vực xét xử); thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản (do nguyên tắc xét xử một lần)... đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh chóng của các đương sự.
Thứ hai, trọng tài có những ưu điểm vượt trội mà thương lượng, hòa giải không có:
Việc tham gia thương lượng, hòa giải không chỉ đòi hỏi các bên có thiện chí, trung thực mà còn phải có kiến thức cần thiết về chuyên môn và pháp lý. Điều này không dễ dàng có được đối với mỗi bên tranh chấp, trong khi đó trọng tài thường là những người có chuyên môn, am hiểu pháp luật có thể giúp các bên tranh chấp khắc phục những khiếm khuyết về pháp lý của mình đồng thời trọng tài thường có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp hơn bên thứ ba trong hòa giải.
Trọng tài luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh, trong đó PLTTTM được coi là trung tâm, là “xương sống” của pháp luật về trọng tài thương mại nên quyết định trọng tài nếu các bên không tự nguyện thi hành thì có thể bị cưỡng chế thi hành. Tuy là tổ chức phi chính phủ nhưng trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý của tòa án. Trong khi đó, hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống, chưa có sự tổng kết thành lý luận, chưa có văn bản nào điều chỉnh quá trình thương lượng, hòa giải. Quyền thương lượng, hòa giải xuất phát từ quyền tự do hợp đồng và quyền tự do định đoạt được Hiến pháp và pháp luật quy định. Do đó, giá trị của kết quả thương lượng, hòa giải không được xác định rõ ràng, thường bị các bên lợi dụng để kéo dài thời gian thực hiện nghĩa vụ. Trên thực tế, việc thực hiện kết quả thương lượng, hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên nên trong nhiều trường hợp tính khả thi không cao.
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhưng phương thức trọng tài vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, đó là:
So với tòa án, trọng tài không có thẩm quyền kê biên tài sản, áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là đối tượng tranh chấp. Việc kê biên chỉ được thực hiện thông qua tòa án trên cơ sở yêu cầu của các bên. Quá trình kê biên này có thể kéo dài, không đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời đề phòng tẩu tán tài sản; quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm là một ưu điểm nổi bật của trọng tài, song nhìn ở phương diện khác đây lại chính là một hạn chế của trọng tài vì quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên các bên khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như ở tòa án.
Do việc giải quyết tại trọng tài đã có sự xuất hiện của bên thứ ba nên việc giữ bí mật của vụ tranh chấp không thể bằng thương lượng.
Ngoài ra, thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy chi phí trọng tài thường được ấn định trước, nhất là những tranh chấp được giải quyết tại các trung tâm trung tâm trọng tài thường có cả các biểu phí được quy định sẵn và biểu phí này thường cao hơn nhiều so với các cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án, hòa giải hay thương lượng mà không phải chủ thể tranh chấp nào cũng có khả năng đáp ứng dù họ rất muốn được giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tuy có một số hạn chế, song với những ưu điểm nổi trội của nó, có thể khẳng định đây là phương thức giải quyết đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp.
2. Pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đã được sử dụng ở Việt Nam từ rất lâu. Cùng với sự tồn tại của hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước là sự tồn tại của trọng tài phi chính phủ trong suốt hơn ba mươi năm, thậm chí khi hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước đã chấm dứt sứ mạng lịch sử của nó vào năm 1994, trọng tài phi chính phủ vẫn phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Trọng tài phi chính phủ trong giai đoạn từ nền kinh tế tập trung, bao cấp đến năm 1993
Giống như các nước ở Đông Âu, hình thức trọng tài phi chính phủ được thành lập đầu tiên ở nước ta theo mô hình Liên Xô cũ gồm: Hội đồng trọng tài ngoại thương thành lập theo Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 và Hội đồng hàng hải thành lập theo Nghị định số153/CP ngày 05/10/1964 đặt bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập với chức năng giải quyết các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng hóa mà một bên mang quốc tịch Việt Nam. Hội đồng trọng tài hàng hải được thành lập với chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ hàng hải mà một trong số các bên tranh chấp là cá nhân, pháp nhân nước ngoài hoặc các bên tranh chấp đều là cá nhân, pháp nhân nước ngoài (điều 2 Điều lệ tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại thương ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP và điều 2 Điều lệ tổ chức Hội đồng trọng tài hàng hải ban hành kèm theo Nghị định số153/CP).
Có thể nói, Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải tồn tại trong khoảng ba mươi năm nhưng hoạt động không nhiều. Từ năm 1960 đến năm 1988, hai Hội đồng trọng tài này chỉ có rất ít các vụ việc trọng tài. Bởi vì trong thời gian này, Việt Nam hầu như chỉ tập trung các mối quan hệ quốc tế về viện trợ phát triển mà bản chất vịên trợ hầu như mang ít tính thương mại. Chính vì thế, các tranh chấp ngoại thương và hàng hải rất hạn chế. Trong trường hợp có tranh chấp bên Việt Nam và đối tác anh em thường tìm cách giải quyết tranh chấp hoặc bất đồng bằng con đường thương lượng trực tiếp. Nếu vụ việc được đưa ra Hội đồng trọng tài ngoại thương hoặc Hội đồng trọng tài hàng hải giải quyết thì các tổ chức trọng tài này thường tìm mọi cách giúp các bên đạt được thỏa thuận trên cơ sở nhân nhượng lẫn nhau. Cho đến hết năm 1993, hai Hội đồng trọng tài này giải quyết được 94 vụ tranh chấp, trong đó từ năm 1963 đến năm 1988 chỉ có ba vụ, đặc biệt không có vụ nào liên quan đến quan hệ ngoại thương đối với các nước phương tây; từ năm 1988 đến năm 1992 đã giải quyết được 91 vụ, tăng gấp ba mươi lần tổng số vụ giải quyết trong 25 năm trước [38, tr.16].
2.2. Trọng tài phi chính phủ trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mặc dù hoạt động với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp, song Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải vẫn chỉ là sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp cho nên cũng chỉ phù hợp với giai đoạn đó của đất nước. Từ năm 1986, nền kinh tế thị trường bắt đầu hình thành và ngày càng phát triển, các tranh chấp không chỉ liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa mà còn liên quan đến hợp đồng hàng hải, trong trường hợp này, việc xác định thẩm quyền thuộc về Hội đồng trọng tài nào thực sự không còn đơn giản. Trước tình hình đó, ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 204/TTg về tổ chức của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải. Tiếp đó, Nghị định 116/CP ngày 3/1/1995 của Chính phủ cũng cho phép một số trung tâm trọng tài khác được thành lập và hoạt động với tư cách là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp như: Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm trọng tài kinh tế Bắc Giang, Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long, Trung tâm trọng tài kinh tế Cần Thơ, Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn.
Nhìn chung, giai đoạn từ năm 1993 đến đầu năm 2003, các trung tâm trọng tài đã thể hiện những vai trò nhất định trong giải quyết các tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của các trung tâm này đã thể hiện những bất cập của pháp luật Việt Nam như: thiếu các quy định cụ thể, điều chỉnh không toàn diện, một số nội dung lạc hậu không phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật thế giới, đặc biệt trong giai đoạn này, hình thức trọng tài ad-hoc chưa được quy định. Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật về trọng tài, đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng tăng đồng thời phù hợp xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH ngày 25/3/2003 về trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là PLTTTM). Để PLTTTM có thể dễ dàng thi hành trong thực tế, ngày 15/1/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của PLTTTM; ngày 31/7/2003, Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTTM.
Có thể nói, PLTTTM ra đời đã đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình lập pháp ở Việt Nam nói chung và pháp luật về trọng tài thương mại nói riêng. PLTTTM đã khắc phục được những bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn của các văn bản trước đây về trọng tài đồng thời đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
3. Các hình thức tổ chức trọng tài
Trọng tài ở các nước nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng được tổ chức dưới các dạng khác nhau, với các tên gọi khác nhau nhưng chủ yếu tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài thường trực và trọng tài vụ việc.
3.1. Trọng tài vụ việc
(Trọng tài ad-hoc, Hội đồng trọng tài do các bên thành lập)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc chỉ tồn tại có tính chất lâm thời, không có trụ sở và bộ máy cố định, trọng tài viên do các bên đương sự tháa thuận lựa chọn. Thông thường, trọng tài viên có thể được lựa chọn từ các thương gia có tu nghiệp pháp lý hay các luật sư làm việc tại các công ty. Các trọng tài viên không chỉ