Đề tài Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020

Vùng  ĐBSCL  có  diện   tích   tự  nh iên   khoảng  3,97  triệu   ha  (chiếm   kho ản g  12%  diện  tích  đất  của  cả  nước),  dân  số  trên   17,7  triệu   ngư ời,  chiếm  hơn  20%  dân  số  cả  nước, GDP  của vùng  chiếm  kho ản g 27% GDP của  cả nước.  Hàng năm  to àn  vùn g sản  xu ất  hơn  50%  sản   lượng  lúa  và  h ơn  90%  lư ợng  gạo   xuất  kh ẩu  của  cả  nước,  thu  về  nguồn  ngo ại  tệ  khoảng  2,7  tỉ  USD/năm.  Vì  vậ y ,  có  thể  kh ẳn g  định  sản   xuất  và  chế  biến lúa gạo là thế mạnh  của vùn g ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lú a gạo đã góp phần  rất  lớn  vào  việc  đảm  bảo  an  ninh  lương  thực  cho  đất  nước,  là  tiền  đề  cho  qu á  trìn h  công nghiệp hóa ­ hiện đ ại hóa đất nước nó i chun g và th ành phố Cần Th ơ nói riêng.  Với  vị   trí  là  trung  tâm  củ a vùn g ĐBSCL, thành  phố  Cần  Thơ  l à nơi  hộ i  tụ  của  nh iều   tu y ến  giao   thôn g  thủ y ,  b ộ  và  hàng  khôn g  qu an   trọng.  Có  hai  con  sông  lớn  là  sông  Tiền   và  sông  Hậu  trải  dài  kh ắp  các  tỉn h,  th ành   trong  vùn g,  h ệ  thống  các  cảng  biển lớn nhất vùng như  cảng Cái Cui , cảng Cần  Thơ, đặc b iệt  là có  kênh Quan Ch ánh  Bố cho  tàu  trọn g tải lớn ra vào sôn g Hậu đã được khởi công vào n ăm 2009  và dự kiến  ho àn   thành  vào   năm  2012.  Quốc  lộ  1A  đi   từ   TP.  HCM  đến  Cần   Thơ  và  đ ến   tỉnh   Cà  Mau,  nơi  tận   cù ng  của  tổ  quốc;  các  tu y ến  quốc  lộ  từ   Cần  Thơ  đ i  đến  các  tỉnh   Vĩnh  Lon g,  Sóc  Trăn g,  Đồng  Th áp,  Kiên   Giang,  An  Giang  hướn g  về  Phnôm  Pênh  (Campuchia);  cùng với đó   là  sân b ay  Cần  Thơ  được đầu tư  nâng cấp để  trở  th ành  sân  ba y   q uốc  tế,  ho àn  thành  và  đưa  vào  kh ai  th ác đầu  năm  2011.  Với  những  lợ i  thế  trên,  thành  phố Cần  Thơ  có  đủ đ iều   kiện đ ể phát  triển công nghiệp  chế biến  lú a gạo  và  trở  thành  trun g tâm chế b iến  lúa gạo của vùng ĐBSCL.  Tron g th ời gian qua các do an h n ghiệp  chế b iế n lúa gạo của th ành ph ố Cần Thơ  đã  có   những  bước  ph át  triển  đ án g  kh ích   lệ   như:  giá  trị  sản  xuất  kinh  do anh  của  năm  sau   đ ều   tăng  cao  so  với   n ăm  trước,  kim  n gạch  xuất  khẩu  gạo  tăng  trưởng  khá  cao  tron g nh iều  năm  liền,  thị  trường  xu ất  khẩu được mở  rộng,  ch ất  lư ợng  và mẫu mã  sản 2  ph ẩm ngày càng được cải tiến , qua đó đã góp  ph ần  làm  nâng cao hiệu qu ả kinh  do anh  củ a các d oanh ngh iệp  và nâng cao đời  sống cho người trồng lúa.  Tu y   vậ y ,  nếu  so  với  nhữn g  tiềm   n ăng  và  y êu  cầu   củ a  qu á  trình   hội  nh ập   kin h  tế quốc tế th ì các do anh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành  phố Cần Thơ  còn rất nhiều  hạn  chế  như :  qu y   mô   của  các  doanh   ngh iệp   ch ế  b iến   lúa  gạo  nhỏ,  các  do anh   nghiệp  còn  gặp  khó  kh ăn   về  vốn,  chất  lượn g  nguồn   nhân  lực  ch ưa  cao,  tron g  kh i  trình  đ ộ  công  n ghệ  còn  thấp;  công  tác  n gh iên   cứu  th ị  trường,  qu ảng  cáo,  xâ y   d ựng  thươn g  hiệu  chư a đ ược các doanh  nghiệp quan tâm đúng mứ c,  tình   trạn g tranh mua tranh bán  giữ a  các  doanh   ngh iệp  với  nhau  vẫn  còn  diễn  ra;  vấn  đề  ô  nh iễm  môi  trường  tron g  sản   xuất  và  chế biến đã  làm ảnh  hưởn g  khôn g  nhỏ đ ến   môi   trườn g  sinh   thái  tự  nhiên  và  đời  sống  của  ngư ời  dân.  Vì  vậ y ,   để  hội  nhập   với  kinh   tế  q uốc  tế,   nhất  là  sau  kh i  Việt  Nam   đã  gia  n hập  Tổ  chức  thương  mại  th ế  giới  (WTO),  các  doanh   n gh iệp   chế  biến  lú a  gạo  của  thành  phố  Cần  Thơ  cần  ph ải  có  chiến  lược  phát  triển  d ài  h ạn ,  bền  vữn g, tận  dụng tối đa nhữn g tiềm n ăn g, lợi thế sẵn có, khắc phục nh ững  y ếu kém , tồ n  tại  của  mình  nhằm  nâng  cao   năng  lự c  sản  xuất  kinh  do anh,  thúc  đẩy   kin h  tế  xã  hội  ph át  triển  và  góp  phần  n ân g  cao  thu   nhập  cho   người  dân,  nhất  là  đối   với  n gười  trồn g  lúa. Đây  ch ính  là  lý do   thô i  thú c tô i  chọn  đề  tài  “Giả i p háp   phá t  triển  sả n xuất kinh  doanh  các doanh  nghiệp  chế biến lúa gạo  của  thành  phố  Cần Thơ  đến năm 2020”  để  làm  lu ận  án  tiến   sĩ  nhằm  góp  phần phát  triển  bền  vững  các doanh   nghiệp  chế biến  lúa  gạo  tron g  thời  gian  tới   và  sự  p hát  triển  đó  sẽ  góp  phần  thú c  đẩ y   q uá  trình  côn g  nghiệp hóa ­ hiện đ ại hóa nông nghiệp, nông thôn của th ành phố.

pdf238 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1649 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1  MỞ ĐẦU  I. LÝ DO NGHIÊN CỨU  Vùng ĐBSCL có diện tích tự nhiên khoảng 3,97  triệu ha (chiếm khoảng 12%  diện  tích đất của cả nước), dân số  trên 17,7  triệu người,  chiếm hơn 20% dân số cả  nước, GDP của vùng chiếm khoảng 27% GDP của cả nước. Hàng năm toàn vùng sản  xuất hơn 50% sản lượng  lúa và hơn 90%  lượng gạo xuất khẩu của cả nước,  thu về  nguồn ngoại  tệ  khoảng 2,7  tỉ USD/năm. Vì vậy, có  thể khẳng định sản xuất và chế  biến lúa gạo là thế mạnh của vùng ĐBSCL. Sản xuất và chế biến lúa gạo đã góp phần  rất lớn vào việc đảm bảo an ninh lương thực cho đất nước,  là  tiền đề cho quá trình  công nghiệp hóa ­ hiện đại hóa đất nước nói chung và thành phố Cần Thơ nói riêng.  Với vị trí là trung tâm của vùng ĐBSCL, thành phố Cần Thơ là nơi hội tụ của  nhiều  tuyến giao thông  thủy, bộ  và hàng không quan trọng. Có hai con sông  lớn  là  sông Tiền và sông Hậu  trải dài khắp các  tỉnh,  thành  trong vùng, hệ  thống các cảng  biển lớn nhất vùng như cảng Cái Cui, cảng Cần Thơ, đặc biệt là có kênh Quan Chánh  Bố cho tàu trọng tải lớn ra vào sông Hậu đã được khởi công vào năm 2009 và dự kiến  hoàn thành vào năm 2012. Quốc lộ 1A đi từ TP. HCM đến Cần Thơ và đến tỉnh Cà  Mau, nơi  tận cùng của tổ quốc; các tuyến quốc lộ từ Cần Thơ đi đến các tỉnh Vĩnh  Long,  Sóc  Trăng,  Đồng  Tháp,  Kiên  Giang,  An  Giang  hướng  về  Phnôm  Pênh  (Campuchia); cùng với đó là sân bay Cần Thơ được đầu tư nâng cấp để trở thành sân  bay quốc tế, hoàn thành và đưa vào khai thác đầu năm 2011. Với những lợi thế trên,  thành phố Cần Thơ có đủ điều kiện để phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo và trở  thành trung tâm chế biến lúa gạo của vùng ĐBSCL.  Trong thời gian qua các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ  đã có những bước phát triển đáng khích lệ như: giá trị sản xuất kinh doanh của năm  sau đều  tăng  cao  so  với năm  trước,  kim ngạch  xuất khẩu  gạo  tăng  trưởng khá cao  trong nhiều năm liền, thị trường xuất khẩu được mở rộng, chất lượng và mẫu mã sản 2  phẩm ngày càng được cải tiến, qua đó đã góp phần làm nâng cao hiệu quả kinh doanh  của các doanh nghiệp và nâng cao đời sống cho người trồng lúa.  Tuy vậy, nếu so với những tiềm năng và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh  tế quốc tế thì các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ còn rất nhiều  hạn chế như: quy mô của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo nhỏ, các doanh nghiệp  còn  gặp  khó  khăn  về vốn,  chất  lượng nguồn nhân  lực  chưa cao,  trong  khi  trình độ  công nghệ  còn  thấp;  công  tác nghiên  cứu  thị  trường,  quảng  cáo,  xây  dựng  thương  hiệu chưa được các doanh nghiệp quan tâm đúng mức, tình trạng tranh mua tranh bán  giữa các doanh nghiệp  với nhau vẫn còn diễn ra; vấn đề ô nhiễm môi  trường  trong  sản xuất và chế biến đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái tự nhiên  và đời sống của người dân. Vì vậy, để hội nhập với kinh tế quốc tế, nhất  là sau khi  Việt Nam đã gia nhập Tổ chức  thương mại  thế giới  (WTO), các doanh nghiệp chế  biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ cần phải có chiến lược phát triển dài hạn, bền  vững, tận dụng tối đa những tiềm năng, lợi thế sẵn có, khắc phục những yếu kém, tồn  tại  của mình nhằm nâng cao năng  lực sản xuất kinh doanh,  thúc đẩy kinh  tế xã hội  phát triển và góp phần nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là đối với người trồng  lúa. Đây chính là lý do thôi thúc tôi chọn đề tài “Giải pháp phát triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020”  để làm luận án tiến sĩ nhằm góp phần phát triển bền vững các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo trong thời gian tới và sự phát triển đó sẽ góp phần  thúc đẩy quá trình công  nghiệp hóa ­ hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của thành phố.  II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  1. Mục tiêu chung  Mục tiêu chung của luận án là khái quát tổng quan về hoạt động sản xuất kinh  doanh lúa gạo, cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để thấy được vai  trò  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của thành phố  Cần Thơ và toàn vùng ĐBSCL hiện nay. Thông qua những kết quả điều tra, luận án  đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành  phố Cần Thơ, từ đó đề xuất những định hướng, mục tiêu và xây dựng các giải pháp 3  nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của thành phố  Cần Thơ đến năm 2020.  2. Mục tiêu cụ thể  Để giải quyết mục tiêu chung, luận án nghiên cứu ba mục tiêu cụ thể sau:  ­ Thứ nhất: Khái quát  tổng quan  về hoạt động  sản xuất  kinh doanh  lúa gạo,  cùng với hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn để khẳng định việc phát triển sản xuất  kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo là phù hợp với tình hình thực tiễn và  quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ  chức thương mại thế giới (WTO).  ­  Thứ  hai:  Thông  qua  kết  quả  điều  tra,  phân  tích  thực  trạng  sản  xuất  kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo thành phố Cần Thơ. Từ đó, đánh giá những  thành công và hạn chế của các doanh nghiệp trong thời gian qua.  ­ Thứ ba: Đề xuất các giải pháp để phát  triển sản xuất kinh doanh các doanh  nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020 nhằm góp phần vào  việc thúc đẩy kinh tế xã hội của thành phố và cả vùng phát triển một cách bền vững.  III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU  1. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Là quá trình hình thành và phát triển  của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ.  2. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Là các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo  trên địa bàn TP. Cần Thơ. Số liệu nghiên cứu của luận án tập trung từ năm 2000 đến  năm 2009, các giải pháp đề xuất sẽ được áp dụng từ nay đến năm 2020, giai đoạn mà  nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp để cơ bản trở thành một nước công nghiệp  hóa, hiện đại hóa.  IV. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI  Thời gian qua, việc nghiên cứu ngành hàng lúa gạo đã được nhiều tác giả quan  tâm. Do những hạn chế về thông tin và điều kiện nghiên cứu, dưới đây tác giả xin nêu  một số công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án. 4  ­  Tác  giả  Nguyễn  Công  Thành  (2010),  Viện  lúa  ĐBSCL,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá và phát triển sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và tập huấn nâng  cao  nhận  thức cho các  thành  viên  trong hoạt động này  tại  tỉnh  Hậu  Giang”, đã  phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và thực trạng về nhận thức  của tất cả các thành viên có liên quan. Từ đó tập huấn nhằm nâng cao nhận thức và sự  hiểu biết  của họ để đẩy mạnh hoạt động  sản xuất,  xuất  khẩu  lúa  gạo  của  tỉnh Hậu  Giang trong thời gian tới.  Trong công trình nghiên cứu này,  tác giả cũng đã điều tra và phân tích chiều  hướng phát  triển,  tốc độ tăng trưởng, sự ổn định trong sản xuất, xuất khẩu lúa gạo;  hiện  trạng  về  sản  xuất  và  xuất  khẩu;  thuận  lợi  và  khó  khăn  của  nông dân,  cán  bộ  khuyến nông,  thương  lái  và nhà  xuất  khẩu; hiện  trạng  về  sự nhận  thức  của  cán bộ  khuyến  nông, nông  dân  và  các  thành  viên  trong  hệ  thống  thu mua,  chế biến,  xuất  khẩu lúa gạo.  Từ những nội dung nghiên cứu trên đề tài đã xây dựng các giải pháp thiết thực  nhằm  tham mưu  cho  chính  quyền  địa  phương  trong  việc  điều  chỉnh  chính  sách  và  hoạt động để phục vụ tốt hơn cho sản xuất, xuất khẩu lúa gạo và cải  thiện đời sống  người nông dân. Đây là đề tài nghiên cứu một cách tổng hợp từ sản xuất đến tiêu thụ  lúa gạo, đối tượng nghiên cứu bao gồm nông dân, cán bộ khuyến nông, thương lái và  nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu này không có phân tích và không có đưa  ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [37].  ­  Tác  giả Cao Minh Nghĩa  (2005), Viện Kinh  tế  TP.HCM,  trong  công  trình  nghiên cứu “Đánh giá thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp chế  biến  thực  phẩm  trên  địa  bàn  TP.HCM”,  đã  đánh  giá  rõ  thực  trạng phát  triển  của  ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trên địa bàn thành phố, phân tích sâu những  lợi thế và tồn tại trong phát triển của ngành, nguyên nhân của những tồn tại, đặc biệt  là các nguyên nhân làm giảm tốc độ tăng trưởng ngành chế biến thực phẩm và làm  giảm tỷ trọng của ngành so với tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong các năm 2003  và 2004. Qua đó định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong  thời gian tới, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh phát  triển ngành cho 5  tương xứng với vị trí của ngành trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn  thành phố Hồ Chí Minh.  Các nội dung được đề cập đến trong đề tài này bao gồm: phân tích thực trạng  tăng trưởng ngành CNCB thực phẩm của TP. HCM giai đoạn 1995 ­ 2004 và đưa ra  các so sánh với cả nước và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phân tích thực trạng  tăng  trưởng bảy ngành  chế biến  thực phẩm  trên địa bàn  thành phố như: ngành chế  biến thịt, chế biến thủy hải sản, chế biến dầu thực vật, chế biến bơ, sữa, sản xuất sản  phẩm  từ  tinh  bột  (mì  ăn  liền),  sản  xuất  bánh,  kẹo,  sản  xuất  rượu,  bia,  nước  uống  không cồn.  Từ những phân  tích đó,  tác giả đã đề xuất hệ  thống 9 giải pháp để nâng cao  năng lực cạnh tranh của sản phẩm và các kiến nghị với Chính phủ, Bộ, ngành để đẩy  mạnh tăng trưởng bảy ngành chế biến thực phẩm nêu trên. Tuy nhiên, đề tài đã không  sử dụng phương pháp phân tích SWOT và phương pháp chuyên gia để phân tích, để  trên cơ sở đó đưa  ra các hệ thống giải pháp. Vì đây  là đề  tài nghiên cứu về ngành  CNCB thực phẩm nên trong đề tài không có nghiên cứu về chế biến lúa gạo [20].  ­ Tác  giả  Lê Văn Gia Nhỏ  (2005),  trong  công  trình nghiên  cứu  “Phân  tích  ngành  hàng  lúa gạo  thơm  tỉnh  Long An  và  lúa gạo cao  sản  tỉnh  An  Giang”, đã  phân tích  hiệu quả kinh doanh của các tác nhân tham gia ngành hàng lúa gạo, phân  tích tác động chính sách của Chính phủ đến ngành hàng lúa gạo xuất khẩu, đánh giá  lợi  thế so  sánh của bốn nhóm mặt hàng gạo xuất khẩu: gạo  thơm đặc sản, gạo chất  lượng cao, gạo chất lượng trung bình và gạo chất lượng thấp, từ đó đề xuất các chính  sách hỗ trợ quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo.  Kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, nông dân là đối  tượng đạt được lợi  ích  nhiều  nhất  trong  các  tác  nhân  tham gia  ngành hàng  lúa  gạo. Bên  cạnh  đó,  các  chính sách của Nhà nước liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu gạo gần như  không  ảnh hưởng đáng kể đến  lợi nhuận của các  tác nhân  tham gia  trong quá  trình  sản xuất và xuất khẩu gạo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, việc sản xuất và xuất  khẩu gạo của Việt Nam có lợi thế so sánh cao, đặc biệt là nhóm gạo thơm đặc sản và  nhóm gạo chất lượng cao. 6  Từ những phân  tích đó,  tác giả đã đề xuất ba chính sách đối với Chính phủ.  Một là, tập trung vào việc phát triển vùng nguyên liệu và chế biến xuất khẩu gạo đặc  sản và gạo chất  lượng cao. Hai  là, khuyến khích  tư nhân  tham gia xuất khẩu nhằm  làm tăng khả năng cạnh tranh trong thị trường thu mua lúa gạo và tăng khả năng tìm  kiếm thị trường xuất khẩu gạo trên thế giới. Ba là, các chính sách liên quan đến vấn  đề quota xuất khẩu, đó là:  tổ chức đấu thầu quota xuất khẩu và Chính phủ sử dụng  khoản thu từ đấu thầu này để hỗ trợ nghiên cứu khoa học cho sản xuất, chế biến và  xuất khẩu, đồng thời cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu trong trường hợp nhu cầu  xuất khẩu gạo lớn hơn hạn ngạch nhưng phần xuất khẩu vượt trội này phải chịu thuế  xuất  khẩu.  Tuy  nhiên,  trong  đề  tài  này,  tác  giả  đã  không  phân  tích  thực  trạng  và  không đưa ra giải pháp nào đối với lĩnh vực chế biến lúa gạo [21].  ­ Tác giả Nguyễn Ngọc Châu (2008), trong công trình nghiên cứu “Phân tích  chuỗi giá trị gạo của thành phố Cần Thơ, đã phân tích về doanh thu, chi phí và hiệu  quả sản xuất, kinh doanh của các tác nhân tham gia trong chuỗi giá trị gạo, gồm có:  nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ. Đồng thời,  tác giả đã phân tích kinh tế chuỗi giá trị gạo ở hai trường hợp: gạo tiêu thụ nội địa và  gạo  xuất  khẩu.  Trong  công  trình  nghiên  cứu  có  sử  dụng  phương  pháp  phân  tích  SWOT về tình hình sản xuất  lúa của nông dân, phân tích mô hình năm áp lực cạnh  tranh của Michael Porter đối với các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu gạo, phân  tích lợi  thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Cần Thơ cũng được tác  giả đề cập đến.  Kết quả nghiên cứu cho thấy, dù gạo tiêu thụ nội địa hay xuất khẩu, lợi ích của  người nông dân đạt được trên mỗi kg gạo nhiều hơn so với những tác nhân còn lại.  Tuy nhiên, đời sống của bà con nông dân vẫn còn nghèo, nguyên nhân chủ yếu là do  diện tích đất canh tác ít (bình quân 0,5 ha/hộ). Trong khi đó, thương lái, doanh nghiệp  chế biến, xuất khẩu gạo và nhà bán lẻ có lợi ích đạt được trên mỗi kg gạo thấp hơn  nông dân nhưng do không bị giới hạn tự nhiên về sản lượng tiêu thụ, năng lực tốt thì  tiêu thụ nhiều, năng lực không tốt thì tiêu thụ ít cho nên tổng lợi nhuận họ có thể thu  về  là  rất  lớn.  Bên  cạnh  đó,  nghiên  cứu  cũng  chỉ  ra  rằng,  trong  tình  hình  hiện  nay 7  chuỗi giá trị gạo xuất khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa. Chính vì  vậy,  các  doanh nghiệp  chế  biến,  xuất  khẩu  gạo  quan  tâm  tìm  kiếm hợp đồng  xuất  khẩu nhiều hơn là khai thác thị trường nội địa.  Từ những phân tích trên, tác giả đã đề xuất các giải pháp nâng cao chuỗi giá trị  gạo của thành phố Cần Thơ, bao gồm: giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, giải  pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động chế biến, phân phối và giải pháp nâng cao giá  trị tăng thêm cho toàn chuỗi.  Do mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích chuỗi giá trị gạo của thành phố  Cần Thơ cho nên trong phần phân tích thực trạng tác giả không nghiên cứu sâu vào  hoạt động chế biến, mà chỉ trình bày khái quát làm cơ sở bổ sung để đề xuất một số  giải pháp nâng cao chuỗi giá trị gạo [6].  ­ Tác giả Diệp Hoàng Sơn (2008), trong công trình nghiên cứu “Hoạch định  chiến  lược  marketing  mặt  hàng  gạo  xuất  khẩu  đồng  bằng  sông  Cửu  Long”,  đã  phân tích, đánh giá các nội dung như: đánh giá  tình hình sản xuất  lúa gạo khu vực  ĐBSCL, phân  tích hiện  trạng chế biến và kinh doanh gạo xuất khẩu của các doanh  nghiệp đóng trên địa bàn, tìm hiểu tình hình sản xuất, tiêu thụ gạo trên thế giới và xây  dựng chiến lược marketing xuất khẩu gạo.  Kết quả của công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng  sản xuất  lúa gạo, đủ cung cấp nhu cầu an ninh lương  thực  trong nước và có dư để  xuất  khẩu  từ 4 đến 4,5  triệu  tấn  gạo đến năm 2015, Việt Nam xếp hạng  trên  trung  bình so với các nước xuất khẩu gạo, nhu cầu tiêu thụ gạo của thế giới trong thời gian  tới rất cao nên sẽ thuận lợi cho việc xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp Việt Nam.  Tuy nhiên, sản xuất lúa ở đây vẫn còn manh mún, nguồn nguyên liệu mang tính thời  vụ cao, hệ thống kho bãi dự trữ thiếu, hoạt động marketing trong các doanh nghiệp  kinh doanh xuất khẩu gạo chưa được xây dựng hoàn chỉnh và nghiêm túc, hệ thống  thông tin chưa hoàn thiện.  Trên  cơ  sở  của  những  đánh  giá  đó,  tác  giả  tiến  hành  xây  dựng  chiến  lược  marketing hỗn hợp, bao gồm:  sản phẩm, giá cả, phân phối và chiêu  thị. Đồng  thời, 8  kiến nghị một số giải pháp cần phối hợp đồng bộ các thành phần: nông dân sản xuất  lúa, doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo, hệ thống tín dụng và Nhà nước [25].  Qua các công trình nghiên cứu trên, có thể thấy rằng chưa có một công trình  nào nghiên cứu một cách khoa học, có hệ thống và đề xuất các giải pháp có tính chiến  lược nhằm phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo.  V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đề tài sẽ được kết hợp giữa lý luận và thực tiễn dựa trên những quy luật phát  triển khách quan về kinh tế  ­ xã hội, các quan điểm và chính sách của Nhà nước về  lĩnh vực lúa gạo.  Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án là phương pháp thống kê  mô tả, phân tích thống kê, so sánh tổng hợp, phương pháp điều tra và phương pháp  chuyên gia.  VI. NHỮNG ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CỦA LUẬN ÁN  Luận án là một công trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả. Kết quả nghiên  cứu của luận án sẽ có những đóng góp khoa học sau:  ­ Một là, rút ra được những bài học kinh nghiệm đối với sự phát triển sản xuất  kinh doanh của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong thời gian tới.  ­ Hai  là,  góp  phần đánh giá  thực  trạng phát  triển  của  các  doanh nghiệp chế  biến lúa gạo TP. Cần Thơ trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2009. Qua đó, rút ra  được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và  thách  thức của các doanh nghiệp chế  biến lúa gạo trong bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước nói chung và TP. Cần Thơ  nói riêng.  ­ Ba là, đề xuất các giải pháp đồng bộ và khả thi để phát  triển sản xuất kinh  doanh các doanh nghiệp chế biến lúa gạo TP. Cần Thơ nhanh và bền vững; trên cơ sở  khai thác một cách hợp lý các nguồn nguyên liệu của địa phương và vùng ĐBSCL.  ­ Bốn là, xác định được mức độ quan trọng của các giải pháp, nhằm giúp các  danh nghiệp chế biến  lúa gạo của TP. Cần Thơ xây dựng chiến  lược phát  triển  sản 9  xuất kinh doanh đến năm 2020. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu còn làm tài  liệu tham  khảo bổ  ích  cho  các nghiên cứu khoa học  liên quan đến  lĩnh vực chế biến  của  các  ngành hàng khác trong vùng ĐBSCL và cả nước.  VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN  Kết cấu của luận án gồm 03 chương ngoài phần mở đầu và kết luận:  Chương 1: Tổng quan về hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp  chế biến lúa gạo.  Chương 2: Đánh giá thực trạng sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ trong thời gian qua.  Chương 3: Giải pháp phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp chế biến  lúa gạo của thành phố Cần Thơ đến năm 2020.  Vì thời gian và trình độ của nghiên cứu sinh còn hạn chế nên luận án không  thể tránh được những thiếu sót nhất định, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và  các bạn. 10  CHƯƠNG 1  TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN LÚA GẠO  Với phương pháp nghiên cứu nêu ở phần mở đầu, chương 1  sẽ  trình bày sự  hình thành và phát triển của các doanh nghiệp chế biến lúa gạo, đặc điểm hoạt động  sản xuất kinh doanh, vai trò của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, cũng  như  những  nhân  tố  ảnh  hưởng đến  hoạt  động  sản  xuất  kinh  doanh  của  các  doanh  nghiệp. Trong chương này, cũng sẽ nghiên cứu kinh nghiệm phát triển sản xuất kinh  doanh lúa gạo của một số doanh nghiệp trong nước và trên thế giới nhằm rút ra các  bài học kinh nghiệm để có thể vận dụng cho các doanh nghiệp chế biến lúa gạo của  thành phố Cần Thơ trong thời gian tới.  1.1. KHÁI NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH  Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh luôn gắn liền với  xã hội loài người; mỗi doanh nghiệp cần phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của thị  trường  và  đưa  ra  những  chiến  lược  đúng  đắn  nhằm  đạt  được  những mục  tiêu  mà  doanh nghiệp đã đề ra.  Hoạt động sản xuất kinh doanh có các đặc điểm sau:  ­ Do một chủ thể thực hiện và gọi là chủ thể kinh tế, chủ thể kinh tế có thể là  cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.  ­ Khác với hoạt động tự túc tự cấp phi kinh doanh, động cơ và mục đích của  hoạt động sản xuất kinh doanh là sản xuất sản phẩm vật chất hay dịch vụ không phải  để tự tiêu dùng mà để phục vụ cho nhu cầu của người khác nhằm thu lợi nhuận.  ­ Sản phẩm của hoạt động sản xuất kinh doanh có thể cân, đong, đo đếm được,  đó là sản phẩm hàng hóa để trao đổi trên thị trường. Người chủ thể sản xuất phải chịu  trách nhiệm đối với sản phẩm của mình sản xuất ra. 11  ­ Hoạt động sản xuất kinh doanh cần phải hướng tới thị trường. Trong đó, các  chủ thể kinh tế có mối quan hệ mật thiết với nhau, đó là: quan hệ với các bạn hàng,  với chủ thể cung cấp các yếu tố
Tài liệu liên quan