Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Người đã để lại một di sản lý luận quý báu cho chúng ta học tập và noi theo. Đối với Đảng và cách mạng nước ta, việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một. Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã trân trọng ghi vào cương lĩnh “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [6, tr.21] Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: “Đảng và nhân dân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [7, tr.83]
Đại hội IX còn nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta ” [7, tr.84]
Quả thật, cách mạng Việt Nam có được thắng lợi như ngày hôm nay là nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn lối. Vì vậy trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta càng cần phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Sau gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Văn hoá xã hội cũng có những tiến bộ đáng kể, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng cao, niềm vui đang đến với mọi nhà. Có thể nói, kinh tế thị trường đã kích thích được tư duy sáng tạo của mọi người, khắc phục tình trạng ỷ nại, bảo thủ trước đây Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, kinh tế thị trường cũng tạo ra một số mặt không tốt đối với đời sống xã hội như: lối sống thực dụng, lãng phí, xa hoa, nhiều tệ nạn xã hội cũng theo đó mà nảy sinh.
108 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2334 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Liên hệ với thực tiễn tại trường Đại học Ngoại thương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị anh hùng dân tộc lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Người đã để lại một di sản lý luận quý báu cho chúng ta học tập và noi theo. Đối với Đảng và cách mạng nước ta, việc vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một. Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam (1991) đã trân trọng ghi vào cương lĩnh “Lấy chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [6, tr.21] Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: “Đảng và nhân dân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [7, tr.83]
Đại hội IX còn nêu rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta…” [7, tr.84]
Quả thật, cách mạng Việt Nam có được thắng lợi như ngày hôm nay là nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh dẫn lối. Vì vậy trong công cuộc đổi mới hiện nay, chúng ta càng cần phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng đất nước.
Sau gần 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những biến đổi sâu sắc về nhiều mặt. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế và đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Văn hoá xã hội cũng có những tiến bộ đáng kể, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng cao, niềm vui đang đến với mọi nhà. Có thể nói, kinh tế thị trường đã kích thích được tư duy sáng tạo của mọi người, khắc phục tình trạng ỷ nại, bảo thủ trước đây…Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đó, kinh tế thị trường cũng tạo ra một số mặt không tốt đối với đời sống xã hội như: lối sống thực dụng, lãng phí, xa hoa, nhiều tệ nạn xã hội cũng theo đó mà nảy sinh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã khẳng định: Tham nhũng là một trong 4 nguy cơ đối với đất nước ta hiện nay. Trên thực tế, thời gian qua chúng ta đã chứng kiến rất nhiều vụ án tham nhũng lớn. Có thể nói tham ô, lãng phí, xa hoa…đã trở thành căn bệnh nguy hiểm đối với xã hội Việt Nam hiện nay. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó, một trong những nguyên nhân quan trọng đó là sự sa sút về đạo đức. Đáng nói hơn, sự sa sút về đạo đức đã xuất hiện ở một bộ phận thanh thiếu niên, thế hệ trẻ của chúng ta. Bên cạnh những sinh viên, học sinh có hoài bão, lý tưởng vẫn còn không ít những thanh thiếu niên, sinh viên tỏ ra thờ ơ với lý tưởng đạo đức cách mạng, chạy theo lối sống thực dụng, xa hoa…Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải giáo dục đạo đức cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước - học tập theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà cách mạng lỗi lạc mà cả cuộc đời Người còn toát lên một tấm gương đạo đức cao cả cho chúng ta học tập và noi theo. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã đánh giá rất cao vai trò của thanh niên, của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước. Người luôn quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ. Vì lẽ đó chúng tôi đã chọn vấn đề: “Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Liên hệ với thực tiễn tại trường Đại học Ngoại thương” làm đề tài nghiên cứu.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng. Đề tài này không chỉ thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học Việt Nam mà còn thu hút không ít sự quan tâm của các nhà khoa học nước ngoài.
Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh – truyền thống dân tộc và nhân loại. Giáo sư Vũ Khiêu chủ biên. NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1993.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Thành Duy chủ biên. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1996.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong hệ chuẩn mực của thời đại mang tên Người. Đỗ Huy. Tạp chí Triết học, số 2, 1992
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, giáo dục thanh niên. Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 10, 2003
Cán bộ, đảng viên học tập và rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặng Sỹ Lộc. Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 3, 2004
Đặc biệt, 3 tập: Tư tưởng Hồ Chí Minh của nhiều tác giả thuộc chương trình nghiên cứu KX02. Viện Hồ Chí Minh xuất bản 1993.
Những công trình kể trên của các tác giả đã đề cập đến những phạm trù đạo đức cơ bản mà Hồ Chí Minh đã sử dụng cũng như đã nêu lên nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là những thuận lợi cho tác giả. Tuy nhiên những công trình đó chưa đi sâu vào việc vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để giáo dục cho thế hệ trẻ. Đó là những khó khăn cho tác giả.
Với thời gian nghiên cứu có hạn, vấn đề lại rộng, phức tạp, do đó đề tài không thể tránh được những khiếm khuyết, rất mong sự quan tâm, đóng góp của độc giả.
3. Mục tiêu, đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là: Trên cơ sở làm rõ những nội dung cụ thể của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, công trình nghiên cứu góp phần luận giải sự cần thiết và những giải pháp chủ yếu nhằm giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Việc giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho tất cả mọi người là rất quan trọng và cần thiết. Song ở đây công trình nghiên cứu giới hạn trong phạm vi giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ, cho thanh niên, sinh viên - những chủ nhân tương lai của đất nước học tập và tu dưỡng đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa trên những quan điểm, tư tưởng của Đảng, lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, những tác phẩm của Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng.
Toàn bộ những vấn đề của đề tài được tác giả nghiên cứu bằng phương pháp phân tích, chứng minh, đối chiếu, so sánh, phương pháp kết hợp giữa lôgic và lịch sử.
Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về đạo đức.
Chương 2: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Chương 3: giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn tại trường Đại học Ngoại thương.
NỘI DUNG
Chương 1: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1.1. Lý luận chung về đạo đức
1.1.1. Khái niệm, nguồn gốc và bản chất của đạo đức
1.1.1.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức là một phạm trù rất rộng nhưng lại rất cụ thể. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường nhắc đến cụm từ đạo đức trên mọi lĩnh vực: đạo đức gia đình, đạo đức xã hội, đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, v.v nói rộng ra là đạo đức của cả một dân tộc. Tuy nhiên khi sử dụng cụm từ này, ít ai quan tâm đến nội hàm của khái niệm. Vậy đạo đức là gì?
Với tư cách là bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức học đã xuất hiện cách đây hơn 20 thế kỷ trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La Tinh là mos (moris) - lề thói (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Trong tiếng Hy Lạp, đạo đức được xem như đồng nhất với “luân lý học” và được bắt nguồn từ chữ Êthicos, nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức tức là nói đến những lề thói và tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày.
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng của triết học Trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi. Về sau, đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn là con đường sống của con người trong xã hội.
Khái niệm Đức lần đầu tiên xuất hiện trong Kim văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy, có thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Trước C. Mác và Ph. Ăngghen, các nhà triết học (kể cả duy tâm lẫn duy vật) đều rơi vào quan điểm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói chung và đạo đức nói riêng. Khác với các quan điểm trên, C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng, trước khi sáng lập các quan điểm tư tưởng, lý luận, con người đã hoạt động thực tiễn, tức là đã sản xuất ra các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Toàn bộ tư tưởng thể hiện trong các hình thái ý thức xã hội của một thời đại đều bắt nguồn từ điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội đó. Ý thức xã hội của con người là sự phản ánh tồn tại xã hội của họ. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau phản ánh những mặt khác nhau của đời sống xã hội. Đạo đức cũng vậy, nó là một hình thái ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội dưới dạng các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi của con người.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, chúng ta có thể hiểu khái niệm đạo đức như sau:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những nguyên tắc, quy tắc chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách ứng xử của con người trong các mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội.
Như vậy, đạo đức không phải là cái có sẵn ở đâu đó, nó được hình thành từ khi có xã hội loài người và tồn tại vĩnh viễn cùng loài người. Tuy nhiên, hệ thống các nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực đạo đức lại có tính lịch sử vì với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức cũng phản ánh tồn tại xã hội, mà tồn tại xã hội lại không bất biến. Hình thái ý thức xã hội đạo đức giúp con người điều chỉnh hành vi của mình, hướng con người tới cái tốt, cái thiện.
1.1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, nó được mọi xã hội, mọi giai cấp, mọi thời đại quan tâm. Trong lịch sử, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Tiêu biểu là một số quan điểm cơ bản sau đây:
Quan điểm của tôn giáo:
Trong giáo lý của các tôn giáo như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo đều đề cập đến tính thiện. Điều đó khiến một số nhà tôn giáo hoặc ngộ nhận, hoặc cố tình kết luận đạo đức có nguồn gốc từ tôn giáo và đạo đức mang bản chất tôn giáo. Họ cho rằng mọi ân đức đều do trời, do chúa, do thần thánh đem đến và ban phát cho loài người. Thiên chúa giáo cho rằng, Thượng đế là đấng tối cao có trách nhiệm ban phát phước lành và cứu rỗi cho loài người và mỗi người phải có bổn phận chấp hành mọi nghĩa vụ trước Thượng đế. Hạnh phúc của loài người là do chúa đem lại. Phật giáo thì cho rằng, có một thế giới thần tiên đối với con người, đó là cõi “niết bàn”.
Sai lầm của các quan điểm tôn giáo là đã đồng nhất đạo đức với tôn giáo. Thực ra, đạo đức và tôn giáo tuy cùng đề cập đến tính thiện, nhưng đạo đức khác về bản chất so với tôn giáo. Mỗi quan niệm đạo đức đều xuất phát từ đời sống hiện thực, đều có giá trị thực tiễn đối với đời sống con người. Còn tôn giáo là một thế giới do con người tưởng tượng ra, là thế giới của hư ảo.
Quan điểm tự nhiên
Những người theo quan điểm tự nhiên cho rằng nguồn gốc của đạo đức có từ bản năng động vật. Động vật cũng có hoạt động sinh con, nuôi con, cho con ăn, bảo vệ con. Loài vật sinh sống và quan hệ với nhau một cách tự nhiên. Xu hướng của loài vật là loài mạnh thắng loài yếu, vì chúng hành động theo tính bản năng của nó. Do vậy có người cho rằng loài người cũng là một sinh vật nên không tránh khỏi xu hướng tự nhiên vốn có này. Từ đó họ kết luận, chủ nghĩa cá nhân, đạo đức vị kỷ là bản chất vĩnh viễn của con người. Con người trước hết phải sống vì cái tôi, cho cái tôi.
Quan niệm trên đây là sai lầm, các loại sinh vật chưa bao giờ ý thức được về nó. Mọi hoạt động của loài vật hoàn toàn chỉ dựa vào tính bản năng. Điều này được C. Mác chỉ rõ: một người kiến trúc sư dù tồi nhất, vẫn hành động khác về chất so với những con ong khéo léo nhất. Do đó không thể lấy loài vật ra so sánh với loài người. Bản chất nổi bật nhất của con người không phải ở bản chất tự nhiên. Cái tạo nên con người, làm cho con người khác loài vật, chính là từ bản chất xã hội: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội ”
Quan điểm xã hội
Những người theo quan điểm xã hội cho rằng; cơ sở, nguồn gốc đạo đức là từ đời sống xã hội, nhưng khi giải thích về bản chất đạo đức họ lại gắn những suy nghĩ chủ quan, vụ lợi nào đó. Họ coi đạo đức như những quy ước chung, có tính chất chủ quan xã hội. Những chuẩn mực đạo đức hiện tồn tại trong xã hội là do chủ quan của con người đặt ra, thành những tôn ti trật tự xã hội. Mỗi người phải có nghĩa vụ, suy nghĩ và hành động theo những khuôn mẫu đó, nếu làm trái sẽ bị đánh giá là vô đạo đức.
Quan điểm của các học giả tư sản
Các học giả tư sản cho rằng, bản chất của đạo đức mang tính vĩnh viễn, không thay đổi, đứng trên mọi giai cấp, có một thứ đạo đức chung cho tất cả loài người đó là đạo đức tư sản.
Có thể nói, tất cả các quan điểm trên đều chưa giải thích một cách đầy đủ và khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Họ không thấy được cơ sở cho đạo đức ra đời đó chính là hiện thực xã hội, họ xoá nhoà bản chất giai cấp của đạo đức. Những học thuyết đó đều nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Khác với những quan điểm trên, chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải thích một cách khoa học về nguồn gốc và bản chất của đạo đức. Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng đạo đức là một hình thái ý thức xã hội xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, nó mang tính lịch sử. Chính con người bằng hoạt động thực tiễn(mà trước hết là lao động sản xuất) và hoạt động xã hội, đồng thời qua kinh nghiệm lịch sử của mình đã xây dựng nên những chuẩn mực đạo đức nhằm điều chỉnh hành vi trong mối quan hệ giữa người và người, giữa cá nhân và cộng đồng xã hội
Ngay từ xã hội nguyên thuỷ, ý thức đạo đức của con người mông muội đã được hình thành, từ đó hoàn thiện dần qua quá trình phát triển của xã hội, trên cơ sở phát triển của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp lên cao. Giống như các hình thái ý thức xã hội khác, đạo đức chịu sự quy định bởi điều kiện kinh tế - xã hội, luôn đấu tranh, kế thừa và phát triển để tiến bộ không ngừng.
Bản chất của đạo đức không phải là một cái gì có sẵn, hoặc tiên định. Nếu không có con người và xã hội loài người thì chẳng có đạo đức nào cả. Đạo đức phản ánh mối quan hệ giữa người và người, về cái thiện và cái ác; tuy nhiên quan niệm về thiện, ác cũng có tính lịch sử. Đạo đức là hiện tượng xã hội có tính người sâu sắc nhất. Nó có tính phổ biến và đa dạng vì nó có mặt trong tất cả các quan hệ xã hội và trong các lĩnh vực hoạt động của con người. Đạo đức bị chi phối bởi điều kiện kinh tế, xã hội và lịch sử. Mặt khác, đạo đức còn bao hàm cảm xúc, trách nhiệm của con người trước hoàn cảnh sống, trước đồng loại. Do đó, đạo đức là sản phẩm tổng hợp của những yếu tố khách quan và những nhân tố chủ quan. Mặt khách quan là những hiện thực được phản ánh vào ý thức đạo đức. Mặt chủ quan là những nỗ lực vươn tới của của con người nhằm đạt tới những giá trị đạo đức đích thực.
Nói cách khác, bản chất của đạo đức không phải là bất biến, đạo đức luôn luôn biến đổi cùng với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Trong xã hội có giai cấp, bản chất của đạo đức luôn mang tính giai cấp. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph. Ăngghen khẳng định: “Xét cho đến cùng, mọi học thuyết về đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ”[]
Mỗi hình thái kinh tế xã hội đều có một hình thái ý thức đạo đức tương ứng. Từ đạo đức của xã hội nguyên thuỷ đến đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản chủ nghĩa, đó là những nấc thang đánh dấu sự tiến bộ về mặt đạo đức của lịch sử loài người. Quá trình phát triển đạo đức là một quá trình phủ định biện chứng, một mặt, các hình thái sau kế thừa các hình thái trước, mặt khác bản thân nó tự biến đổi để phù hợp với tồn tại xã hội tương ứng. Quy luật của sự biến đổi bao giờ cũng theo xu hướng tiến bộ và sáng tạo ra những giá trị mới. Nguyên nhân sâu xa là do lực lượng sản xuất xã hội ngày phát triển và hoàn thiện, nên đạo đức tất yếu cũng phải được phát triển và hoàn thiện trên cái nền tảng ấy. Nhưng cũng phải thấy rằng nếu con người không tự cố gắng biến đổi mình cho phù hợp với yêu cầu cuộc sống, thì ý thức và quan niệm cũ về đạo đức sẽ trở thành vật cản đối với sự phát triển xã hội.
1.1.2.Chức năng và vai trò của đạo đức đối với sự phát triển của xã hội
1.1.2.1. Chức năng của đạo đức
a. Chức năng giáo dục
Con người muốn làm được điều thiện, tránh được điều ác, muốn cho những hành vi của mình được xã hội chấp nhận, không bị dư luận xã hội lên án thì họ phải nắm được những quan điểm, những chuẩn mực đạo đức cơ bản. Chẳng hạn, nguyên tắc sống của con người phải trung thực, thật thà. Nhìn vào nguyên tắc này, mỗi con người phải tự giác tuân theo, hoặc ai vi phạm, như ăn cắp, nói dối sẽ bị dư luận phê phán. Vì vậy, chức năng giáo dục của đạo đức đóng vai trò quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên
Cùng với quá trình giáo dục thì quá trình tự giáo dục sẽ giúp con người con người càng hiểu rõ vai trò to lớn của lương tâm, nghĩa vụ, danh dự và những phẩm chất đạo đức cần thiết của cá nhân mình đối với đời sống của cộng đồng. Nhờ có chức năng giáo dục và tự giáo dục, con người học tập được ở những tấm gương đạo đức cao cả xả thân làm việc nghĩa, hy sinh quên mình cho đất nước, kiên cường đấu tranh cho chân lý…Chính vì vậy làm cho xã hội ngày càng công bằng, văn minh, tiến bộ.
b. Chức năng điều chỉnh hành vi
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức có tác dụng làm cho hoạt động của con người phù hợp với các chuẩn mực của cộng đồng với lợi ích của xã hội. Nếu như pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh cưỡng bức của nhà nước thông qua các đạo luật, thì đạo đức điều chỉnh hành vi của con người qua đó điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng sức mạnh của dư luận xã hội, phong tục tập quán, truyền thống và sự kiểm soát của lương tâm.
Trong cuộc sống hiện thực, con người có rất nhiều mối quan hệ rất đa dạng, phức tạp đòi hỏi phải giải quyết, nhất là các mối quan hệ có liên quan đến lợi ích, chúng luôn có những mâu thuẫn giằng xé nhau buộc chủ thể đạo đức phải đấu tranh với chính bản thân, nhiều lúc vô cùng quyết liệt. Những mối quan hệ này lại nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của pháp luật. Vì thế nếu không dựa vào hệ thống những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức của xã hội thì cá nhân không thể lựa chọn, cân nhắc, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Bản chất của sự điều chỉnh hành vi là quá trình đấu tranh chiến thắng của cái thiện với cái ác, của cái tốt với cái xấu, của cái lương tâm với cái vô lương tâm…Như vậy, chức năng giáo dục và chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức luôn gắn liền với nhau trong đời sống đạo đức.
c. Chức năng nhận thức
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Các quan điểm, chuẩn mực đạo đức chính là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức phù hợp yêu cầu phát triển của xã hội. Vì vậy, nó được con người đánh giá, thừa nhận và khái quát thành những khuôn mẫu về mặt đạo đức để con người căn cứ vào đó mà tự xem xét, tự đánh giá, tự điều chỉnh bản thân.
1.1.2.2. Vai trò của đạo đức đối với sự phát triển xã hội
Cách đây hàng nghìn năm, vai trò của đạo đức đối với xã hội đã được các nhà xã hội học xem xét và bàn luận tới.
Trong xã hội Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (thế kỷ VI tr CN) đã khuyên học trò “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ông mong muốn xã hội phát triển bình ổn, gia đình sống