Trong những năm qua với quá trình mở cửa đất nước, nền kinh tế cuả nước ta cũng có nhiều đổi mới ngày càng sâu sắc và toàn diện.
Theo đà phát triển đó công tác kế toán với tư cách là công cụ phục vụ quản lý kinh tế cũng đã có sự đổi mới và phát triển không ngừng về nội dung phương pháp để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế đất nước.
83 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm tại nhà máy cơ khí Hồng Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHần mở đầu
Trong những năm qua với quá trình mở cửa đất nước, nền kinh tế cuả nước ta cũng có nhiều đổi mới ngày càng sâu sắc và toàn diện.
Theo đà phát triển đó công tác kế toán với tư cách là công cụ phục vụ quản lý kinh tế cũng đã có sự đổi mới và phát triển không ngừng về nội dung phương pháp để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế đất nước.
Trước ngưỡng cửa nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp có được nhiều cơ hội thuận lợi nhưng cũng phải đương đầu với không ít những khó khăn mà khó khăn lớn nhất là cạnh tranh gay gắt, không những trong nước mà còn cạnh tranh với những doanh nghiệp nước ngoài.
Để tồn tại và phát triển thì mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp không chỉ sản xuất những sản phẩm có chất lượng tốt mà còn phải tìm mọi biện pháp hạ giá thành. Gía thành sản phẩm cao hay thấp, nó phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng vật tư, tiền vốn, lao động của doanh nghiệp. Việc quản lý, sử dụng hợp lý tiết kiệm các nguồn lực nói trên sẽ là tiền đề, là cơ sở để hạ giá thành sản phẩm và ngược lại.
Để giải quyết những vấn đề đó phải hoàn thiện công tác hạch toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm. Công việc này không chỉ mang lại ý nghĩa về mặt lý luận mà mang ý nghĩa thực tiễn to lớn và cấp bách trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của doanh nghiệp sản xuất ở nước ta nói chung và nhà máy cơ khí Hồng Nam nói riêng.
Được tiếp nhận về thực tập , tìm hiểu tình hình thực tế ở nhà máy cơ khí Hồng Nam em nhận thấy công tác quản lý giá thành giữ vai trò hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác quản lý của toàn doanh nghiệp. Xuất phát từ nhận thức đó nên em đã chọn đề tài “Hạch toán chi phí sản xuất và tính gía thành sản phẩm tại nhà máy cơ khí Hồng Nam” cho báo cáo chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình .
Nội dung của chuyên đề gồm 3 phần:
Phần I - Lý luận chung về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp.
Phần II- Thực trạng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại nhà máy cơ khí Hồng Nam.
Phần III- Phương hướng hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy cơ khí Hồng Nam.
Với kiến thức còn hạn chế, chưa có điều kiện tiếp xúc thực tế, em mong đựoc sự giúp đỡ của thầy cô và các anh ,chị, cô, bác phòng kế toán chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Phần I
Những vấn đề lý luận cơ bản về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành trong các doanh nghiệp sản xuất.
I.Bản chất và nội dung kinh tế của chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (tháng, năm , quí). Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình kết hợp của 3 yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Đồng thời, quá trình sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao lao động, về tư liệu lao động và đối tượng lao động. Vì thế sự hình thành nên các chi phí sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người sản xuất.
Có sự phân biệt giữa chi tiêu và chi phí. Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm: chi tiêu cho quá trình cung cấp (chi mua vật tư, hàng hoá...), chi tiêu cho quá trình sản xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm, công tác quản lý...) và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ (chi phí vận chuyển bốc , dỡ, quảng cáo...).Chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kỳ này. Chi phí và chi tiêu không những khác nhau về lượng mà còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kỳ này nhưng tính vào chi phí kỳ sau (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa sử dụng) và có những khoản tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí trong các doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức chuyển dịch giá trị của từng tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chúng.
Từ đó ta có thể kết luận: chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong kỳ để thực hiện quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm. Thực chất chi phí là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp- chuyển dịch giá trị của các giá trị của các yếu tố sản xuất vào các đối tượng tính gía nhất định (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), nó là vốn của doanh nghiệp bỏ vào quá trình sản xuất kinh doanh.
Gía thành sản phẩm.
Gía thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao động và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành.
Qúa trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: mặt hao phí sản phẩm và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí phát sinh (phát sinh trong kỳ, kỳ trước chuyển sang) và các chi phí trích trước có liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành trong kỳ sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kỳ.
Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với gía thành sản phẩm.
Về thực chất, chi phí và giá thành là hai mặtkhác nhau của quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí sản xuất, còn giá thành sản phẩm phản ánh mặt kết quả sản xuất.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ dưới đây:
CPSX dở dang đầu kỳ
CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
CPSX dở dang cuối kỳ
Qua sơ đồ ta thấy:
Tổng giá thành sản phẩm
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Khi giá trị sản phẩm dở dang (CPSX dở dang) đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Như vậy, giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà khồng bao gồm những chi phí phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp. Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan đến việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng các yếu tố chi phí trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.
Phân loại CPSX và giá thành sản phẩm.
Phân loại CPSXKD.
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều khoản khác nhau về nội dung, tính chất công dụng,vai trò, vị trí và yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng khác nhau. Quản lý chi phí không thể dựa vào số liệu cụ thể của từng loại chi phí riêng biệt mới có thể đáp ứng được yêu cầu kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất phân loại chi phí sản xuất theo những tiêu thức thích hợp sẽ đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý vừa đáp ứng được yêu cầu của kế toán tập hợp chi phí sản xuất, lập dự toán chi phí và thúc đẩy công ty không ngừng tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, phát huy hơn nữa vai trò của công cụ kế toán đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp chi phí sản xuất vào từng loại, từng nhóm khác nhau theo những đặc trưng nhất định. Vì vậy, nó có ý nghĩa quan trọng đối với công tác hạch toán cũng như công tác kế hoạch hoá, kiểm tra, phân tích chi phí sản xuất của toàn doanh nghiệp và từng bộ phận cấu thành trong công ty.
Xét về mặt lý luận cũng như trên thực tế có rất nhiều cách phân loại khác nhau như phân loại theo nội dung kinh tế, theo công dụng , theo vị trí, theo quan hệ của chi phí với quá trình sản xuất...Mỗi cách phân loại đều đáp ứng ít nhiều cho mục đích quản lý, hạch toán, kiêm tra kiểm soát chi phí phát sinh...ở các độ khác nhau. Và ở cách phân loại nào cũng dựa trên một số chỉ tiêu như: đặc điểm của chi phí theo ngành , theo đơn vị. Vì thế các cách phân loại đều tồn tại, bổ sung cho nhau và giữ vai trò nhất định trong quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Trên góc độ tài chính, CPSX thường được phân theo những tiêu thức sau:
Phân theo yếu tố chi phí (theo nội dung kinh tế) của chi phí sản xuất.
Theo cách phân loại này, những khoản chi phí có nội dung kinh tế được xếp chung vào một yếu tố,không kể chi phí đó phát sinh ở địa điểm nào, dùng vào mục đích gì trong sản xuất kinh doanh. Tuỳ theo yêu cầu và trình độ quản lý của mỗi nước, mỗi thời kỳ mà mức độ chi tiết của các yếu tố có thể khác nhau. Theo qui định hiện hành ở Việt Nam, toàn bộ chi phí được chia làm 7 yếu tố.
Yếu tố nguyên liệu, vật liệu: bao gồm giá trị nguyên , vật liệu chính , vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, công cụ...sử dụng vào sản xuất kinh doanh (loại trừ giá vật liệu dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi).
Yếu tố nhiên liệu, động lực sử dụng vào quá trình sản xuất kinh doanh (trừ số dùng không hết nhập lại kho và phế liệu thu hồi)
Yếu tố tiền lương và các khoản phụ cấp lương. Phản ánh tổng số tiền lương và phụ cấp mang tính chất lương phải trả cho toàn bộ công nhân, viên chức.
Yếu tố BHXH, BHYT, KPCĐ: phản ánh phần BHXH,BHYT,KPCĐ trích theo tỷ lệ qui định trên tổng số tiền lương và phụ cấp lương phải trả công nhân viên chức.
Yếu tố khấu hao tài sản cố định: phản ánh tổng sốkhấu haoTSCĐ phải trích trong kỳ của tất cả TSCĐ sử dụng cho sản xuất trong kỳ.
Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: phản ánh toàn bộ chi phí dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh.
Yếu tố chi phí khác bằng tiền: phản ánh toàn bộ chi phí khác bằng tiền chưa phản ánh vào các yếu tố trên dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
Cách phân loại này cho biết những chi phí đã chi vào quá trình sản xuất và tỷ trọng của từng loại chi phí đó chiếm bao nhiêu trong tổng số chi phí sản xuất của doanh nghiệp, làm cơ sở để tập hợp chi phí sản xuất và lập báo cáo chi phí sản xuất theo yếu tố. Phân loại theo cách này còn là cơ sở để lập và cân đối các kế hoạch với nhau, kế hoạch lao động và tiền lương, kế hoạch cung ứng vật tư..., là cơ sở tính toán xác định các nhu cầu tiêu hao vật chất cho doanh nghiệp.
b) Phân loại theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm
Theo cách phân loại này, người ta căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm để thuận tiện cho việc tính giá thành, toàn bộ chi phí đượcphân chia theo khoản mục. Cách phân loại này dựa vào công dụng của chi phí và mức phân bổ chi phí cho từng đối tượng.Theo qui định hiện hành, giá thành sản xuất (giá thành công xưởng) ở Việt nam bao gồm 3 khoản mục chi phí:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (CPNVLTT): Phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ, dịch vụ.
Chi phí nhân công trực tiếp (NCTT): Gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ của tiền lương phát sinh.
Chi phí sản xuất chung (CPSXC): Là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản xuất nhưng có tính chất phục vụ chung cho quá trình sản xuất sản phẩm (trử CPNVLTT,CPNCTT).
Ngoài ra, khi tính chỉ tiêu giá thành toàn bộ (giá thành đầy đủ) thì chỉ tiêu giá thành còn bao gồm khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng.
Mặc dù việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố chi phí có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng trong thực tế khó tính giá theo yếu tố. Vì doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm nên tính giá thành theo yếu tố phải tính toán phân bổ nhiều lần và như vậy rất phức tạp. Do đó người ta dùng cách tập hợp những khoản chi phí cần phân bổ vào những nhóm riêng có cùng một công dụng kinh tế để phân bổ một lần. Do vậy việc phân loại chi phí theo khoản mục ngoài tác dụng kiểm tra tình hình sử dụng chi phí trong phạm vi doanh nghiệp cũng như theo từng loại sản phẩm riêng biệt, còn đáp ứng nhu cầu tính giá thành sản phẩm.
c) Phân loại chi phí theo chức năng sản xuất kinh doanh
Dựa vào chức năng hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh và chi phí liên quan đến việc thực hiện các chức năng chi phí sản xuất kinh doanh gồm 3 loại:
Chi phí thực hiện chức năng sản xuất: gồm những chi phí liên quan đến việc chế tạo sản phẩm hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ trong phạm vi phân xưởng.
Chi phí thực hiện chức năng tiêu thụ: gồm tất cả các chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ...
Chi phí thực hiện chức năng quản lý: gồm các chi phí quảnlý kinh doanh, hành chính và những chi phí chung phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Cách phân loại này là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, xác định giá trị hàng tồn kho, phân biệt chiphí theo từng chức năng cũng như làm căn cứ để kiểm soát và quản lý chi phí.
d) Phân loại theo cách thức kết chuyển chi phí
Toàn bộ CPSXKD được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ. Chi phí sản phẩm là chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra được được mua. Còn chi phí thời kỳ là những làm giảm lợi tức trong một thời kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm được sản xuất hoặc được mua nên được xem là phí tổn được khấu trừ ra từ lơị tức của thời kỳ mà chúng phát sinh.
e) Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc hoàn thành:
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và điều tra chi phí, đồng thời làm căn cứ cho việc đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí kinh doanh được phân theo quan hệ với khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này chi phí được chia thành biến phí và định phí.
Biến phí là những chi phí thay đổi về tổng số, về tỷ lệ so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí về nguyên liệu, nhân công trực tiếp...
Định phí là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng , phương tiện kinh doanh,...Các chi phí này nếu tính cho một đơn vị sản phẩm thì lại biến đổi nếu số lượng sản phẩm thay đổi.
Cách phân loại này có ý nghĩa quan trọng với kế toán quản trị trong quá trình phân tích tình hình tiết kiệm chi phí, xác định phương hướng nâng cao hiệu quả chi phí.
f) Phân theo quan hệ với quá trình sản xuất
Theo cách phân loại này chi phí bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp:
Chi phí trực tiếp là những chi phí tự bản thân chúng có quan hệ trực tiếp tới quá trình sản xuất và có thể chuyển trực tiếp cho sản phẩm hay đối tượng chịu chi phí.
Chi phí gián tiếp là những chi phí chung, không phân định được cho từng đối tượng nên cần phân bổ.
Cách phân loại này có ý nghĩa đối với việc xác định phương pháp kế toán và phân bổ chi phí cho các đối tượng một cách đúng đắn và hợp lý.
g ) Phân loại theo khả năng kiểm soát.
Theo cách này toàn bộ chi phí bao gồm chi phí kiểm soát được và chi phí không kiểm soát được. Đây là khoản mục chi phí phản ánh phạm vi quyền hạn của các nhà quản trị các cấp đối với các chi phí đó.
Bên cạnh các cách phân loại trên, trong quản lý kinh tế người ta còn sử dụng một số thuật ngữ khác như chi phí khác biệt, chi phí cơ hội, chi phí tới hạn...
Chi phí khác biệt là những chi phí được đem so sánh các phương án khác nhau. Trước khi ra quyết định, nhà quản lý phải so sánh chi phí và kết quả các phượng án tối ưu. Khi so sánh, sẽ thấy một số khoản chi phí xuất hiện trong phương án này nhưng chỉ xuất hiện một phần hay biến mất ở phương án khác và chúng được goị là chi phí khác biệt.
Chi phí thời cơ là khoản chi phí hoàn toàn không xuất hiện trên sổ sách kế toán. Đó chính là khoản lợi nhuận tiềm tàng bị mất khi chọn một phương án kinh doanh này để thay một phương án kinh doanh khác. Nói cách khác, khoản thu nhập thực sự của phương án kinh doanh bị huỷ bỏ sẽ trở thành chi phí cơ hội của phương án được chọn.
Chi phí tới hạn là khoản chi phí mà doanh nghiệp đầu tư bổ sung để làm thêm số sản phẩm ngoài dự kiến. Đây là một chìa khoá để doanh nghiệp số lượng sản phẩm cần sản xuất, tiêu thụ nhằm đạt lợi nhuận tối đa hoặc hạn chế số lỗ tới mức thấp nhất (nếu đang bị lỗ).
Như vậy mỗi cách phân loại nói trên đều có tác dụng và ý nghĩa riêng. Đồng thời, có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác dụng bổ sung với nhau và nhằm mục đích chung là quản lý tốt chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Qua cách phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp cho phép xác định một cơ cấu chi phí khác nhau và hiểu được cặn kẽ nội dung, tính chất và vị trí của từng loại trong sản xuất taọ ra sản phẩm. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải đứng trên góc độ khác nhau để xem xét nghiên cứu các cách phân loại này.
2. Phân loại giá thành
Để đáp ứng yêu cầu của quản lý, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như trên thực tiễn ngoài các khái niệm giá thành xã hội, giá thành cá biệt còn có các khái niệm giá thành toàn bộ, giá thành công xưởng.
Xét trên phạm vi phát sinh chi phí , giá thành chia làm 2 loại:
Gía thành sản xuất (hay giá thành công xưởng): là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất (CPNLVTT, NCTT, SXC)
Gía thành tiêu thụ (giá thành toàn bộ): là chi phí thực tế của số sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ của doanh nghiệp (chi phí bán hàng, quản lý, chi phí sản xuất). Do vậy, giá thành tiêu thụ còn gọi là giá thành đầy đủ hay giá thành toàn bộ và được tính theo công thức.
Gía thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ
=
Gýa thành sản xuất sản phẩm
+
Chi phí quản lý doanh nghiệp
+
Chi phí tiêu thụ sản phẩm
Xét về thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành , gồm:
Gía thành kế hoạch: là gía thành được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức , dự toán chi phí thời kỳ kế hoạch.
Gía thành định mức: cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xác định trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Gía thành thực tế: giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm trên cơ sở các chi phí phát sinh trong qúa trình sản xuất sản phẩm.
Việc xem xét chỉ tiêu giá thành sản phẩm trên các góc độ khác nhau là cần thiết. Bởi vì mỗi loại giá thành có ý nghĩa khác nhau trong quá trình quản lý kinh tế và quá trình kinh doanh. Chẳng hạn, giá thành công xưởng dùng để đánh giá hạch toán kinh tế nội bộ, giá thành tiêu thụ xác định kết quả kinh doanh.
Thông tin về hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thông tin chủ yếu, mang tính quyết định và là cơ sở để ra các quyết định kinh doanh cụ thể như sản lượng hoà vốn, tối đa lợi nhuận...Vì thế muốn tập hợp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đáp ứng đầy đủ trung thực, kịp thời yêu cầu quản lý chi phí và giá thành của doanh nghiệp, kế toán cần thực hiện các nhi