Một số tài liệu gốc của Trung Quốc có chỉ rõ rằng, ở Koguryo vừa là người đứng đầu nhàn ước, là người có quyền uy rất lớn về chính trị, kinh tế, tư pháp, tôn giáo. Vua là người sở hữu toàn bộ ruộng đất cả nước. Vua lấy đất đai trong nước cấp, thưởng công và làm bổng lộc cho các quan lại trong bộ máy nhà nước. Từ khi được nhận đất của vua, những quan lại này trở thành người sở hữu những khoảnh đất lớn. Họ khai thác đất đai được cấp bằng cách chia nhỏ thành từng mảnh, phân cho từng gia đình nông dân, bắt họ canh tác rồi nộp tô cho chủ đất. Các chủ đất còn bắt nông dân làm các công việc lao dịch, lực dịch như đào đắp, sửa chữa các công trình công cộng, chủ yếu là các công trình thủy lợi, các lâu dầi và thành trì, xây dựng các công trình thuỷ lợi, công trình kiến trúc mới của nhà nước.
Nông dân cũng là đối tượng được nhà nước chia cho ruộng đất. Thân nhân của những gia đình đại quý tộc cũng được chia đất theo chế độ ban đất nhà vua.
Tất cả những điều đó, chủ yếu là từ mối quan hệ giữa chủ sở hữu về ruộng đất với người lĩnh canh ruộng đất để sản xuất nông nghiệp, từng bước tạo cơ sở cho sự hình thành của quan hệ sản xuất phong kiến ở Koguryo
22 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hàn Quốc trong giai đoạn phong kiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Từ những thế kỷ đầu công nguyên, Hàn Quốc bước sang giai đoạn phong kiến. Tuy vậy, những tiền đề cho sự hình thành và tồn tại của phương thức sản xuất phong kiến, chế độ phong kiến đã xuất hiện trước thời gian đó ít lâu, khoảng 1,2 thế kỷ trước công nguyên.
Sự hình thành và phát triển của các quan hệ sản xuất phong kiến ở Hàn Quốc diễn ra một cách chậm chạp và không đồng đều giữa các miền khác nhau của đất nước. Sự hình thành của các quan hệ sản xuất phong kiến ở Hàn Quốc đi liền với những cuộc đấu tranh khốc liệt, dai dẳng nhằm thôn tính nhau giữa các phe cánh, giữa các thế lực, giữa các vùng. Kết cục, trên đất Hàn Quốc từ nửa sau của thế kỷ I đã hình thành nên những vương quốc lớn là Koguryo, Paekche và Shilla. Mỗi vương quốc này có quá trình hình thành và phát triển riêng, tuy vậy, có những nét chung tạo cơ sở thuận lợi cho quá trình thống nhất các vương quốc phân cát này trong một quốc gia thống nhất vào giữa thế kỷ VII.
PHẦN NỘI DUNG
I. VƯƠNG QUỐC GOGURYO
Các quan hệ phong kiến nảy sinh ở vương quốc Koguryo - mọt vương quốc ở khu vực miền Bắc Hàn Quốc, sớm hơn so với ở một số các vương quốc khác.
Một số tài liệu gốc của Trung Quốc có chỉ rõ rằng, ở Koguryo vừa là người đứng đầu nhàn ước, là người có quyền uy rất lớn về chính trị, kinh tế, tư pháp, tôn giáo. Vua là người sở hữu toàn bộ ruộng đất cả nước. Vua lấy đất đai trong nước cấp, thưởng công và làm bổng lộc cho các quan lại trong bộ máy nhà nước. Từ khi được nhận đất của vua, những quan lại này trở thành người sở hữu những khoảnh đất lớn. Họ khai thác đất đai được cấp bằng cách chia nhỏ thành từng mảnh, phân cho từng gia đình nông dân, bắt họ canh tác rồi nộp tô cho chủ đất. Các chủ đất còn bắt nông dân làm các công việc lao dịch, lực dịch như đào đắp, sửa chữa các công trình công cộng, chủ yếu là các công trình thủy lợi, các lâu dầi và thành trì, xây dựng các công trình thuỷ lợi, công trình kiến trúc mới của nhà nước.
Nông dân cũng là đối tượng được nhà nước chia cho ruộng đất. Thân nhân của những gia đình đại quý tộc cũng được chia đất theo chế độ ban đất nhà vua.
Tất cả những điều đó, chủ yếu là từ mối quan hệ giữa chủ sở hữu về ruộng đất với người lĩnh canh ruộng đất để sản xuất nông nghiệp, từng bước tạo cơ sở cho sự hình thành của quan hệ sản xuất phong kiến ở Koguryo.
Theo truyền thuyết, Koguryo được thành lập từ năm 37 trước công nguyên ở trung tâm của vùng lòng chảo sông Tung-chia và Yalu. Tuy nhiên, vào khoảng thế kỷ IV trước công nguyên, tại đây, một quý tộc tên là Yemaek đã đặt những cơ sở tồn tại đầu tiên cho vương quốc Koguryo. Ở thế kỷ II trước công nguyên, tầng lớp thống trị ở Koguryo đã nắm được một vùng rộng lớn ở miền Bắc Hàn Quốc và đã quản lý số lượng cư dân hơn 300.000 người. Vương quốc Koguryo hình thành và phát triển thế lực trong bối cảnh luôn bị các thế lực và các triều đại phong kiến láng giềng ở Trung Quốc đe doạ. Các cuộc xung đột giữa phong kiến Trung Quốc và Koguryo luôn luôn diễn ra. Vì vậy, Koguryo rất cần có lực lượng quân sự mạnh. Lực lượng quân sự của Koguryo nằm dưới quyền của quý tộc, có vai trò quan trọng để Koguryo phát triển thế lực của mình rộng ra ở khu vực miền Bắc Hàn Quốc, vừa là lực lượng chủ yếu chống lại xâm nhập vào lãnh thổ Koguryo, vào bán đảo Hàn Quốc của phong kiến Trung Quốc. Trải qua các lần xung đột, đội quân vũ trang của Koguryo tham gia vào tất cả các hoạt động sản xuất, vẫn dành thời gian để luyện tập quân sự. Điều đó làm cho lực lượng vũ trang của Koguryo có thểt đảm nhiệm được những yêu cầu đặt ra của chính quyền nhà nước Koguryo.
Đầu thế kỷ I trước công nguyên, Koguryo tìm cách mở rộng đờng biên giới của nó ra các hướng: vùng lòng chảo sống Liao (Liêu) phía Tây Nam, vùng sông Taedong ở phía Nam, vùng lòng chảo sông sungari ở phía Tây Bắc và các cùng đồng bằng dọc theo bờ biển Đông Bắc của bán đảo Hàn Quốc. Những vùng mà Koguryo khuyếch trương ảnh hưởng đều nằm dưới sự cai trị của Trung Quốc, hoặc chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, do đó việc nổ ra chiến tranh giữa Koguryo với Trung Quốc là điều không tránh khỏi. Những trận giao tranh ác liệt nhất giữa Koguryo và Trung Quốc nổ ra vào những năm của thế kỷ đầu công nguyên, trong thời kỳ Trung Quốc dưới triều Tân của Vương Mãng.
Đội quân của Vương Mãng chịu thất bại (năm 12) tới năm 53, Koguryo đã kiểm soát được toàn bộ vùng châu thổ sông Tung-chia, mở các cuộc tấn công các quận Liao - tung ở phía Tây và quận Lo-lang ở phía Nam.
Dưới thời vua taejo (53 - 146?) thế lực của Koguryo ngày càng được mở rộng. Ở triều đại vua Kogukch’ ou (179 - 196) Koguryo là một quốc gia mạnh. Quyền lực của nhà vua, sức mạnh của bộ máy nhà nước được tăng cường. Trước hết, 5 vùng đất của các bộ lạc còn tồn tại từ thời kỳ đầu được tổ chức lại thành 5 “pu” (tỉnh) với các tên gọi đặt theo các hướng Đông Nam. Tây Bắc và Trung Tâm - Sau nữa, quyền thừa kế ngai vàng không còn truyền từ anh đến em mà là từ cha cho con. Đã thành thông lệ, hoàng hậu chỉ chọn từ gia đình đại quý tộc Myonguin thuộc dòng họ Youna. Tất cả những việc đó và những mối quan hệ đặc biệt được thiết lập giữa hoàng gia và một dòng họ nhằm mục đích là ngăn cản những trung tâm quyền lực khác có thể phát sinh và chống lại sự tăng cường quyền lực quân chủ. Những thay đổi này đã tạo cơ sở cho Koguryo mở rộng lãnh thổ về vùng lòng chảo sông Liao ở phía Tây và vùng sông Taedong ở phía Nam. Đến khi Packche xuất hiện năm 244. Koguryo đã kiểm soát được khu vực từ châu thổ sông Tung - Chia về phía Nam tới tân thượng lưu sông Hàn.
Đầu thế kỷ IV, những cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Tiền Yên (Trung Quốc) và cuộc xung đột với packche trong thời kỳ vua Koguwon đã tạm thời làm chậm bước tiến của Koguryo. Để giải quyết những khó khăn đặt ra, vua Koguryo là Sosurim (371 - 384) đã tiến hành một cuộc thay đổi quan trọng. Là người chấp nhận đạo Phật, năm 372, ông lại còn cho lập ra Viện khổng học quốc gia, đồng thời ngay trong năm sau, ban hành một bộ luật hành chính. Nếu như đạo Phật tạo ra sự thống nhất về tôn giáo thì việc chấp nhận khổng học lại tạo ra một tầng lớp quan liêu mới làm chỗ dựa cho cơ cấu bộ máy nhà nước. Kết quả là Koguryo đã hoàn thành việc tổ chức cơ cấu bộ máy nhà nước trong đó tầng lớp quý tộc quan liêu là trung tâm.
Công cuộc cải tổ bên trong đó đã đặt nền tảng cho quá trình mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Dưới thời vủa Kwanggaeto (391 - 413), những chiến dịch quân sự lớn đã được tiến hành, Kwanggaeto được mang tên “Người mở rộng lãnh thổ vĩ”, và trên một bia đã đặt trên mộ ông ở kinh đô Koguryo có ghi: Trong thời gian hơn 20 năm trị vì, vu Kwanggaeto đã thu phục 64 khu vực và 1.400 làng.
Vua ChangSu (“Người sống lau”, 313-491) nối ngôi vua Kwanggaeto, trong suốt 79 năm trị vì vẫn tiếp tục sự nghiệp của vua cha và đưa Koguryo lên đến đỉnh cao cảu sự hưng thịnh. Bằng một chính sách ngoại giao khôn khéo, ông kìm giữ Trung Quốc khi đặt quan hệ cả với hai triều đại phía Bắc và Nam. Năm 427, ChangSu dời đo về Pyongyang (Bình Nhữơng). Việc dời đô từ một vùng núi nhỏ hẹp tới một khu vực đồng bằng ven sông rộng lớn tạo cho kinh đô, khi chỉ là một căn cứ quân sự mà còn phải là một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội. Và trên thực tế, từ đo Pyongyang thực sự là trung tâm chính, với sự hoàn thiện về thể chế chính trị, kinh tế... của Koguryo.
Tuy vậy, việc dời đô về phía Nam, tới Pyongyang của Koguryo đã đe doạ sự tồn tại của PaeKche và Shilla. Hai vương quốc này đã liên minh với nhau (năm 433). Sự thẳng thắn Paekche còn sang vương quốc Wei phía Bắc Trung Quốc để cầu cứu lực lượng chống Koguryo (năm 472). Nhưng vô hiệu, năm 473 Koguryo tấn công, chiếm được Kinh đô của PaeKche ở HanSong (Kwangju. Phía Nam Xơ-un hiện nay). PaeKche phải dời đô về phia Nam, tới Ungju (Kongju hiện nay).
Năm 551, lợi dụng Koguryo bị chia rẽ nội bộ, PaeKche và Shilla tấn công Koguryo. Shilla tấn công vùng thượng lưu sông Hàn, còn PaeKche tấn tông vào vùng hạ lưu sông này. Nhưng, sau đó Shilla đã phản bội đồng minh của mình, quay lại chiếm vùng hạ lưu sông Hàn. Liên minh PaeKche và Shilla tan vỡ.
PaeKche quay ra liên minh với Koguryo đẩy Shilla đơn độc chống lại cuộc tấn công từ hai phía: của Koguryo từ phía Bắc và PaeKche từ phía Nam và phía Tây.
Sang cuối thế kỷ Vi, nhà Tuỳ thống nhất Trung Quốc năm 589, Tuỳ văn đế đem 30 vạn quân sang xâm lược Hàn Quốc. Nhằm chống lại PaeKche và Koguryo, Shilla đã liên minh với nhà Tuỳ. Các năm 612, 613, 614, nhà Tuỳ liên tiếp đem quân sang xâm lược Hàn Quốc, nhưng không thành công, trong đó phải kể đến công lao của Koguryo.
Năm 618, ở Trung Quốc, triều tuỳ bị lật đổ, triều Đường lên thay. Nhân khi nhà Đường còn lo ổn định xã hội, Koguryo cho đắp các dãy trường thành phòng vệ, và liên minh với PaeKche để tấn công Shilla.
Năm 645, nhân khi Shilla đến cầu viện, nhà Đường đem 20 vạn quân với 500 chiến thuyền tấn công Koguryo, nhưng bị đại bại. Năm 660, nhà Đường mang 10 vạn quân phối hợp với quân Shilla cùng tấn công PaeKche. PaeKche bị diệt vong. Koguryo bị cô lập. Năm 666, nội bộ Koguryo lại xảy ra xung đột vũ trang làm thế nước suy yếu. Lợi dụng tình hình ấy, năm 667, nhà đường lại phối hợp với Shilla tấn công V, Năm 668, Koguryo bị chinh phục.
II. VƯƠNG QUỐC PAEKCHE
Vương quốc PaeKche phát sinh vào thế kỷ III, chiến cứ miền tây nam bán đảo Hàn Quốc. Một điều đáng chú ý là PaeKche đã phát triển, và vượt lên so với các vương quốc nhỏ khác (cũng gọi là PaeKche) nằm ở trong vùng Manhan (Mã Hàn), do “vua Chin” cai trị. Hiện chưa biết chắc chắn thời điểm xuất hiện của PaeKche với tư cách là một vương quốc liên minh bằng cách sát nhập các quốc gia độc lập khác trong vùng lòng chảo sông Hàn. Nhưng, ở thời điểm năm 246, theo các tài liệu lịch sử để lại, đã có nhiều cuộc tấn công lớn vào khu vực sông Hàn, nhằm mục đích phá vỡ và cản trở quá trình củng cố của thế lực mới này của các chiến binh Lo-lang và Tai-Fang (những vùng mà sau này nằm sưới sự cai trị của Wei- một trong số những quốc gia của Trung Quốc ở miền Bắc). Trong một cuộc chiến tranh, thủ lĩnh của Tai - Fang là Kung TSun bị giết và điều đó cho thấy sức mạnh của thế lực mới nổi lên này.
Người có công lớn đối với quá trình hình thành của quốc gia PaeKche là vua Koi (234 - 286). Ông được coi là một trong những nhân vật lịch sử thành lập nên vương quốc. Vào năm thứ 20 của triều đại Koi, năm 260, vua tiến hành một cuộc sắp xếp lại bộ máy nhà nước. Sau vua, bộ máy quan lại gồm 6 quan đầu triều được chỉ định để điều hành quốc gia theo chức năng riêng. Tiếp đó là 16 chức vụ quan lại cũng tuỳ theo thứ bậc. Năm 262, Vua Koi ra lệnh trừng phạt những viên quan ăn hối lộ hay tham nhũng bằng cách phát gấp 3 và đổi khỏi cửa quan suốt đời.
Ở triều đại vua Kun Chogo (346-375), việc kết cấu Paekche thành một quốc gia quý tộc, trung ương hoá hoàn thành. Trong thời gian trị vì, Kun Chogo đã cho quân tàn phá vùng Mã hàn, chiếm toàn vùng Iksan, Năm 371, ông cho quân tiến lên phía Bắc vào sâu trong lãnh thổ Koguryo, tới tân Pyongyang, giết chết vua V là Kogugwon... Nhờ đó, PaeKche đã nắm quyền thống trị một vùng rộng lớn của bán đảo Hàn Quốc. Hơn thế, vua Kun Chogo còn củng cố vị trí của mình bằng cách liên hệ với người Trung Quốc ở miền Đông Bắc và cả với người Wa ở Nhật.
Sau Kun Chogo, người ké vị ngai vàng của PaeKche là Kun Kusu (375 - 384). Một điều đáng chú ý là, ngay sau khi Kun Kusu chết, Chimnyu lên thay, đã chấp nhận đạo Phật (384).
Ở thế kỷ V, PaeKche phải đối đầu với nhiều mối đe doạ nguy hiểm. Năm 473 PaeKche phải dời đô về phía Nam, tới Ungju (Kongju hiện nay). Dưới thời trị vì của vua Muryong (501 - 523) PaeKche lại được hồi sinh. Thời này, ngoài kinh đố, quốc gia Packche có tới 22 tammo (huyện). Đến thời vua Song (523 - 554). Kinh đô PaeKche chuyển về Sabi, nằm trên vùng đồng bằng lớn Puyo. Sau khi xây dựng lại vương quốc đồng thời đã củng cố được quyền lực trong tay, vua Song cho mở các cuộc chiến tranh để lấy lại các lãnh thổ trước đây của PaeKche ở vùng lòng chảo sông Hàn.
Để thực hiện mục đích này, vua Song đã ký kết một hiệp ước với vủa Chinhung của Shilla và lợi dụng sự bất hoà trong nội bộ Koguryo để tiến về phía Nam. Với việc chiếm được vùng hạ lưu sông Hàn, vua Song đã đạt được mục đích. Nhưng đến khi Shilla phản bội lại đồng minh, chiếm lấy thành quả của PaeKche thì PacKche xem Shilla như một kẻ thù truyền kiếp, cũng như Koguryo và liên minh với Koguryo, liên tục mở những cuộc tấn công chống lại Shilla.
III. VƯƠNG QUỐC SHILLA
Shilla là một vương quốc phát triển lên từ Saro một trong 12 quốc gia độc lập ở vùng Chinhan (Thìn Hàn) vùng Đông Nam bán đảo Hàn Quốc. Dưới triều vua Naemul (356 - 402), SHilla trở thành một vương quốc liên minh lớn ở phía đông sông Naktong.
Dưới triều đại vua Naemul, nhà họ Kim là họ nắm quyền với ngôi vua ở Shilla, và tới triều vua Nulchi (417 - 458) thì mô hình cha truyền con nối đã hình thành. Việc đó đánh dấu sự ra đời của một nhà nước quân chủ quý tộc ở Shilla. Tiếp đó, 6 cộng đồng thị tộc được tổ chức lại thành 6 pu (huyện) hành chính. Để chống lại sức ép của Koguryo trên vùng biên giới của mình, Shilla liên minh với PaeKche năm 433. Dưới thời vua Chabi (458 - 479), quan hệ của Shilla với PaeKche được củng cố đã hạn chế được sự xâm nhập của Koguryo. Hơn nữa, khi PaeKche dời đô về Ungjin năm 475, địa vị của Shilla khá vững.
Dưới triều đại vủa Pophung (514 - 540), Shilla đã hoàn thành việc cơ cấu một quốc gia, quý tộc hoá. Một sự kiện quan trọng là ở thời kỳ này, vua Pophung đã ban hành một bộ luật hành chính năm 520. Mặc dù các điều khoản của bộ luật không được biết một cách chắc chắn, nhưng qua những tài liệu để lại, có thể thấy nó bao gồm những quy định cơ bản về cơ cấu 16 cấp bậc trong triểu, những quy định về trang phục riêng cho chế độ quan liêu hành chính. Việc công nhận đạo Phật là quốc giáo vào khoảng thời gian từ 527 - 535, cũng là một sự kiện đáng ghi nhớ dưới triều vua Pophung. Điều đó đã tạo ra một nền tảng tư tưởng và tổ chức của nhà nước Shilla.
Khi đã củng cố được địa vị, Shilla tiến hành mở rộng lãnh thổ bằng việc tấn công vào những nước láng giềng. qúa trình này diễn ra trong một thời gian khá dài. Vua Chijung đã chinh phục Ucan (một đảo phía Đông Ullung) năm 513, và sau đó vua Pophung đã xâm lược Pon Kaya năm 532, tạo bàn đạp tiến về hướng tây Bắc và vùng lòng chảo sông Naktong. Thời vua Chinhung (540 - 576) là thời Shilla mở rộng lãnh thổ quan trọng của Shilla. Năm 551, Shilla tấn công Koguryo ở vùng lòng chảo sông Hàn, phối hợp với vua Song. Mười “hai” ở vùng thượng lưu sông Hàn đã rơi vào tay Shilla. Tiếp đó, Shilla lại đẩy lực lượng của PaeKche ra khỏi vùng hạ lưu sông Hàn, nắm toàn bộ vùng lòng chảo của con sông này.
Năm 562, vủa Chinhung tàn phá Tae Kaya và Shilla chiếm được vùng lòng chảo sông Naktong màu mỡ, ở hướng Đông Bắc, Chinhung đẩy biên giới Shilla vào sâu vùng đồng bằng Hamhung. Bốn cột bia đã dựng lên ở Chang Nyong, Pukhan. Hwang cho và Maun nhằm đánh dấu chuyến đi thị sát vùng biên cương mới của nhà vua là một bằng chứng về thành quả mở rộng lãnh thổ của vua Chinhung. Liên minh Shilla - PaeKche tồn tại trong 120 năm đã tạo điều kiện cho việc củng cố địa vị của Shilla.
Tuy vậy, khi Shilla quay lại phản bội đồng minh và nhất là khi PaeKche quay sang liên minh với Koguryo thì thế lực của Shilla suy yếu dần.
Khi Koguryo liên minh với PaeKche để tấn công Shilla, Shilla phải cầu cứu nhà Đường ở Trung Quốc. Mục đích của Shilla là dùng thế lực của phong kiến nhà Đường đánh bại Koguryo và PaeKche, thu hồi lại đất đai và khôi phục lại địa vị của Shilla. Nhưng khi diệt xong 2 nước trên, nhà Đường lại đặt ách thống trị lên toàn bộ bán đảo Hàn Quốc, làm cho quần chúng nhân dân luôn nổi dậy phản kháng, Shilla nhân tình hình ấy đem quân phối hợp với các nhóm nghĩa binh cùng đánh đuổi kẻ xâm lược, giải phóng đất nước vào năm 675.
IV. TÌNH HÌNH KINH TẾ, CHÍNH TRỊ XÃ HỘI THỜI TAM QUỐC
1. Kinh tế
Ở thời Tam Quốc, cơ sở kinh tế của các nước là nông nghiệp. Trong nông nghiệp, cây trồng chủ yếu là lúa, ngoài ra còn có kê, lúa mì, lúa mạch. Ngoài cây lương thực, cư dân còn trồng các loại rau củ, cây ăn quả, cây lấy hạt khác.
Phần lớn đất đai trong các nước thời Tma quốc thuộc quyền sở hữu của giới quý tộc. Một phần nhỏ đất đai của nhà nước được giao cho những gia đình nông dân canh tác. Đại bộ phận nông dân phải nhận ruộng phát canh của giới quý tộc để cày cấy, sau đó nộp thuế má cho bọn quý tộc. Ngoài khoản thuế thóc mà nông dân phải nộp cho giới quý tộc, người lao động còn phải nộp nhiều thứ thuế khác như thuế vải, các mặt hàng mà người dân sản xuất ra dưới dạng các cống vật. Bởi lẽ, ngoài lao động nông nghiệp, người dân còn phải sản xuất phụ thêm nhiều thứ khác để chi dùng cho đời sống như sản xuất thủ công nghiệp, chăn nuôi gia súc... Nông dân còn phải làm nghĩa vụ lao dịch cho nhà nước, cho bọn quý tộc. Lao dịch cho quý tộc và nhà nước thường thể hiện dưới hình thức xâu dịch, và thời gian ít hay nhiều phụ thuộc vào nhu cầu và ý muốn của giai cấp thống trị.
Thuế má và các khoản chi phí của nhà nước trong đó phần lớn phục vụ cho cuộc sống xa xỉ của giai cấp quý tốc và các chuộc chiến tranh, xung đột giành quyền lực và lãnh thổ... đều đổ lên đầu người nông dân.
Bên canh nông nghiệp, thời Tam Quốc, thương nghiệp bước đầu có nhiều thay đổi, ở kinh đô, chợ xuất hiện làm nơi trao đổi các sản phẩm địa phương. Chợ còn được lập ra ở các pu (huyện) cũng nhằm mục đích này. Trong buôn bán, phương thức chủ yếu là vật đổi vật, ngoài ra còn có một số loại “tiền” dưới dạng vỏ sò, và đôi lúc là các đồng tiền đúc của Trung Quốc. Việc buôn bán với nước ngoài đã được tiến hành, chủ yếu là mua hàng của Trung Quốc. Trong các nước Tam Quốc PaeKche cũng bôn bán với nước Wa Nhật Bản nhưng ở mức độ rất hạn chế.
Trên lĩnh vực kinh tế, sự ảnh hưởng của nước ngoài chủ yếu là của Trung Quốc với các nước Tam Quốc khá rõ rệt. Do sự gần gũi về địa lý với bắc Trung Quốc - nơi mà các quan hệ phong kiến đã hình thành từ lâu, kinh tế có nhiều tiến bộ, nên từ sớm, tại Hàn Quốc nhiều người di cư đến từ các tỉnh miền bắc Trung Quốc đã mang theo kỹ thuật nông nghiệp và thủ công nghiệp. Giữa PaeKche và nam Trung Quốc có mối liên hệ từ sớm, nên các nghề thủ công ở PaeKche chịu ảnh hưởng củatq. Thợ đồ gốm, thợ dệt, thợ rèn vũ khí, thợ mộc, thợ đóng tàu, thợ thêu... ở PaeKche không chỉ nổi tiếng trên phạm vi bán đảo, mà còn ảnh hưởng đến tận Nhật Bản. Trong thời Tam quốc, Nhật Bản luôn đặt mua sản phẩm thủ công của PaeKche.
Trong ba nước thời Tam quốc, Shilla là nước mà các quan hệ phong kiến tiến triển chậm. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do Shilla nằm ở phần đông nam của bán đảo tình hình chính trị không ổn định, do địa thế ở xa Trung Quốc là nước phong kiến tiên tiến vào thời kỳ ở Đông Á. Gần với Shilla hơn cả là Nhật Bản. Nhưng Nhật Bản thời này đang ở vào mức tác phẩm xã hội thấp hơn Trung Quốc và thấp hơn cả các quốc gia Hàn Quốc nữa.
2. Cộng đồng làng xã và cư dân
Các quốc gia thời Tam Quốc là các quốc gia lấy nông nghiệp làm hoạt động kinh tế chủ yếu. Đơn vị cơ bản để tiến hành công việc canh tác là cộng đồng các làng xã. Phần lớn cư dân nông nghiệp trong những cộng đồng làng xã là những người tự do, hay bình dân, địa vị của họ khác nhau, nhưng nhìn chung là thấp, và theo cách gọi của người Trung Quốc, họ thuộc giới “những kẻ hèn mọn”. Trong cộng đồng làng xã, đứng trên những lớp người nông dân là Trưởgn làng (homin). Trong cộng đồng làng xã, lớp người có địa vị thấp nhất là nô lệ. Sống trong cộng đồng làng xã, người nông dân phải dựa vào nhau, liên kết với nhau, nên tính chất cộng đồng khá cao.
Các quốcgia thời Tam quốc đều được hình thành và phát triển trên cơ sở của sự liên kết các cộng đồng làng xã. Nhà nước sử dụng các làng xã làm đơn vị thu thuế, bắt xâu dịch đối với người lao động. Do vậy, ở Hàn Quốc tồn tại một tình trạng cũng có những nét tương tự với nhiều nước khác ở phương Đông, là mặc cho sự thay đổi triều đại, hay thậm chí cả sự thống trị của ngoại tộc nữa, cơ cấu cộng đồng làng xã và cư dân sống trong đó, có phần ít bị xáo trộn.
3. Cấu trúc chính trị và quốc gia độc lập
Giai cấp thống trị trong các quốc gia độc lập ở Hàn Quốc thời Tam Quốc là giai cấp quý tộc phong kiến. Các quốc gia Tam Quốc đều phát