Theo các nhà nghiên cứu, ngƣời đầu tiên xây dựng nên lí thuyết hành vi
ngôn ngữ là nhà triết học ngƣời Anh John.L.Austin, trong cuốn sách đƣợc
công bố sau khi ông qua đời How to do things with words. Ngƣời phát triển lí
thuyết này là nhà triết học J.Searle với công trình Speech Acts.
Dựa trên cơ sở lí luận trong công trình nghiên cứu của Austin và
Searle, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam đã trình bày khái niệm
"hành vi ngôn ngữ" nhƣ sau:
Theo Giáo sƣ Đỗ Hữu Châu: "Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành
động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn
ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết)
Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ
cảnh C"[4, tr.88].
Giáo sƣ Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi ngôn ngữ là hành động ngôn
từ, ông cho rằng: "Các hành động được thực hiện bằng lời là hành động ngôn
từ. Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một phát ngôn"
[9, tr.337-338].
120 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2569 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hành vi cảm thán trong truyện Kiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------------------
PHẠM KIM THOA
HÀNH VI CẢM THÁN
TRONG TRUYỆN KIỀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
----------------------------
PHẠM KIM THOA
HÀNH VI CẢM THÁN
TRONG TRUYỆN KIỀU
Chuyên ngành: NGÔN NGỮ HỌC
Mã số: 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phạm Hùng Việt
Thái Nguyên - 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kì một công trình khoa học
nào khác.
Thái Nguyên, ngày 29 tháng 9 năm 2009
Phạm Kim Thoa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4
môc lôc
MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7
6. Bố cục của luận văn 7
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT 8
1.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ 8
1.2. Hành vi cảm thán 20
1.3. Hành vi cảm thán và câu cảm thán 24
Tiểu kết 26
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG TIỆN THỂ HIỆN HÀNH VI CẢM THÁN
VÀ CÁC LOẠI HÀNH VI CẢM THÁN TRONG TRUYỆN KIỀU 27
2.1. Phƣơng tiện thể hiện hành vi cảm thán trong Truyện Kiều 27
2.2. Các loại hành vi cảm thán trong Truyện Kiều 60
Tiểu kết 77
CHƢƠNG 3: VAI TRề CỦA HÀNH VI CẢM THÁN TRONG
TRUYỆN KIỀU 78
3.1. Hành vi cảm thán với vai trò xây dựng hình tƣợng các nhân vật
trong Truyện Kiều 78
3.2. Hành vi cảm thán với vai trò thể hiện thái độ của tác giả 104
Tiểu kết 110
KẾT LUẬN 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO 116
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Ngữ dụng học là một bộ môn của ngôn ngữ học nghiên cứu việc sử
dụng ngôn ngữ trong mối quan hệ với các nhân tố giao tiếp. Tuy ra đời chƣa
lâu song bộ môn khoa học này đã phát triển mạnh mẽ cả về lí thuyết, cả về
những nghiên cứu cụ thể, khiến ngôn ngữ học không còn nằm trong hệ thống
khép kín của cấu trúc luận nội tại mà đã đi vào thực tế đa dạng của đời sống
ngôn ngữ. Nghiên cứu các hành vi ngôn ngữ, đặc biệt là hành vi ở lời, là phần
việc quan trọng của ngữ dụng học.
Trong giao tiếp, để bày tỏ đƣợc ý định, mục đích của mình, ngƣời ta
thƣờng dùng nhiều loại hành vi ngôn ngữ, mà mỗi loại hành vi đó lại đƣợc
thực hiện bằng một số kiểu câu có hình thức, mục đích nói năng nhất định.
Trong tiếng Việt, theo các nhà ngữ pháp học có bốn kiểu câu thể hiện mục
đích nói là: câu trần thuật (còn gọi là "câu kể, câu miêu tả"); câu cầu khiến
(còn gọi là "câu mệnh lệnh"); câu nghi vấn (còn gọi là "câu hỏi"); câu cảm
thán (còn gọi là "câu cảm"). Mỗi kiểu câu nêu trên đều có vai trò khác nhau
giúp ngƣời nói lựa chọn và sử dụng phƣơng tiện giao tiếp hợp lí nhất. Trong
đó, câu cảm thán là loại câu biểu thị đƣợc tình cảm - cảm xúc rất đa dạng và
tinh tế của ngƣời Việt Nam.
Tuy vậy, các kiểu câu cảm thán đƣợc sử dụng khi sáng tác văn chƣơng,
ở mỗi tác giả, mỗi tác phẩm (nhất là sáng tác thơ) lại có những điểm khác biệt
nhất định.
Chọn đề tài với nội dung nghiên cứu “Hành vi cảm thán trong Truyện
Kiều”, tác giả luận văn mong muốn sẽ tiếp cận đƣợc tác phẩm văn học nổi
tiếng này trên bình diện ngôn ngữ học, nhằm tìm hiểu đƣợc sự sáng tạo độc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6
đáo của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ để sáng tác nghệ thuật khi
viết về thân phận bi thƣơng của nàng Kiều.
Hiện nay, trong các trƣờng phổ thông, việc dạy và học Truyện Kiều
chủ yếu mới ở khía cạnh bình giảng văn chƣơng dƣới góc độ hình tƣợng nghệ
thuật, mà còn ít đi sâu vào hình thức ngôn từ. Chúng tôi hi vọng kết quả
nghiên cứu của đề tài có thể cung cấp thêm cơ sở cho các thầy cô giáo và các
em học sinh phân tích, cảm thụ tác phẩm nổi tiếng này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nguyễn Du là một nhà thơ thiên tài của nền thi ca dân tộc. Trong các
tác phẩm của ông, Truyện Kiều là một kiệt tác đƣợc viết bằng chữ Nôm. Đây
là một cống hiến to lớn của nhà thơ đối với sự phát triển của ngôn ngữ văn
học dân tộc. Nghiên cứu ngôn ngữ trong Truyện Kiều là góp phần hiểu biết
sâu sắc hơn về tài năng sử dụng các phƣơng tiện ngôn ngữ của nhà thơ.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu dành nhiều tâm huyết để tìm hiểu về
Nguyễn Du và các tác phẩm của ông (trong đó đặc biệt là Truyện Kiều). Các
tác giả tập trung bàn về hình tƣợng nghệ thuật, triết lí nhân văn hay mâu thuẫn
tƣ tƣởng và nhân cách của nhà thơ. Đó là các công trình có giá trị nhƣ: “Từ
điển Truyện Kiều” và "Khảo luận về Truyện Thuý Kiều"của Đào Duy Anh;
“Thi pháp Truyện Kiều” của Trần Đình Sử; “Tìm hiểu phong cách Nguyễn
Du qua Truyện Kiều” và "Phƣơng pháp tự sự của Nguyễn Du trong Truyện
Kiều" của Phan Ngọc; "Một vài đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều"của Đào
Thản; “Giảng văn Truyện Kiều” và "Truyện Kiều và thể loại truyện nôm"của
Đặng Thanh Lê; "Nghệ thuật điển hình hoá và ngôn ngữ trong Truyện
Kiều"của Nguyễn Lộc; "Nhân vật Từ Hải"của N.I.Niculin; "Triết lý đạo Phật
trong Truyện Kiều"của Cao Huy Đỉnh; "Truyện Kiều của Nguyễn Du" của Đỗ
Đức Hiểu; "Mấy lời bình luận về văn chƣơng Truyện Kiều"của Nguyễn
Tƣờng Tam; “Bình giảng mƣời đoạn trích trong Truyện Kiều”của Trƣơng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7
Xuân Tiếu; “Nghệ thuật tái tạo nhân vật trong Đoạn trƣờng Tân Thanh của
Nguyễn Du”của Nguyễn Hằng Thanh v.v...
Gần đây, có một số công trình nghiên cứu về mặt ngôn ngữ sử dụng
trong Truyện Kiều nhƣ: “Tìm hiểu về từ ngữ Truyện Kiều” của Lê Xuân Lít;
"Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của thành ngữ trong Truyện Kiều" (luận văn
Thạc sĩ) của Cao Thị Phƣơng Lan; "Tìm hiểu hƣ từ trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du" (luận văn Thạc sĩ) của Nguyễn Thị Ninh Ngọc; “Tìm hiểu lập
luận miêu tả trong Truyện Kiều” (luận văn thạc sĩ) của Lƣu Thị Thanh Mai;
“Cách sử dụng trực tiếp và gián tiếp các kiểu câu trong Truyện Kiều” (luận
văn thạc sĩ) của Quách Thị Bình Thọ; “Tìm hiểu các phƣơng tiện ngôn ngữ
thể hiện hành động cầu khiến trong Truyện Kiều” (luận văn thạc sĩ) của Đặng
Thị Thu Hƣơng; “Câu hỏi trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và việc sử dụng
câu hỏi để biểu thị hành động nói”(luận văn thạc sĩ) của Trịnh Minh Thành;
"Đặc trƣng thẩm mĩ của các ngữ liệu văn hoá trong Truyện Kiều" của Võ
Minh Hải và Nguyễn Quang Linh v.v...
Với các kiểu câu phân loại theo mục đích nói (trong đó có câu cảm
thán) cũng đã có rất nhiều tác giả tập trung nghiên cứu ở những công trình
lớn, vừa và nhỏ nhƣ: “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt” của Mai Ngọc Chừ,
Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến; “Ngữ pháp tiếng Việt - Câu” của Hoàng
Trọng Phiến; “Ngữ pháp tiếng Việt” - tập 2 của Diệp Quang Ban; “Tiếng
Việt” - tập 2 của Đinh Trọng Lạc và Bùi Minh Toán; “Câu trong tiếng Việt”
của Cao Xuân Hạo; “Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” của Nguyễn
Nhƣ ý (chủ biên); "Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại" của Đinh Văn Đức; "Giáo
trình ngôn ngữ học" và “Dẫn luận ngôn ngữ học” của Nguyện Thiện Giáp
(chủ biên); “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” của Phạm Hùng Việt; “Câu
tiếng Việt” của Nguyễn Thị Lƣơng; “Hành động ngôn ngữ biểu lộ trong kiểu
câu cảm thán của tiếng Việt hiện đại”của Hồ Xuân Lộ; Luận án tiến sĩ “Câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8
cảm thán trong tiếng Việt” và bài viết “Một số hình thức hỏi biểu thị cảm thán
trong tiếng Việt” của Nguyễn Thị Hồng Ngọc; “Hành vi cảm thán và sự kiện
lời nói cảm thán trong tiếng Việt” - luận án Tiến sĩ của Hà Thị Hải Yến; “Câu
cảm thán dƣới góc nhìn dụng học” của Đặng Thị Hảo Tâm v.v...
Ngoài các công trình trên, nghiên cứu về ngữ dụng học phải kể đến các
tác giả: George Yule với cuốn "Dụng học - Một số dẫn luận nghiên cứu ngôn
ngữ"; Đỗ Hữu Châu với cuốn “Đại cƣơng ngôn ngữ học" tập 2; Nguyễn Đức
Dân với cuốn “Ngữ dụng học” tập 1; Mai Ngọc Chừ chủ biên cuốn “ Nhập
môn ngôn ngữ học”; Nguyễn Thiện Giáp với cuốn “Dụng học Việt ngữ”;
Trần Ngọc Thêm với cuốn “Ngữ dụng học và văn hóa – ngôn ngữ học”.v.v..
Trong đó, hai tác giả Đỗ Hữu Châu và Nguyễn Đức Dân đã nghiên cứu sâu về
hành vi ngôn ngữ.
Các công trình vừa nêu trên đã đi vào nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến ngữ dụng học, hành vi ngôn ngữ, về các kiểu câu phân loại theo
mục đích nói, cũng nhƣ các tác phẩm nghiên cứu về Nguyễn Du và Truyện
Kiều. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về hành vi cảm
thán và câu cảm thán trong Truyện Kiều.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Ngƣời dân thuộc mọi dân tộc đều có nhu cầu bộc lộ tƣ tƣởng, tình cảm
của mình trƣớc các sự vật khác nhau, các hiện tƣợng khác nhau của hiện thực
xung quanh. Việc bộc lộ đó đƣợc thể hiện bằng nhiều phƣơng tiện, song hiệu
quả nhất vẫn là bằng ngôn ngữ.
Tác giả luận văn tiếp cận đề tài này là có mục đích chỉ ra các đặc trƣng
của hành vi cảm thán và tác dụng của hành vi cảm thán trong Truyện Kiều.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu những vấn đề về lí thuyết về các kiểu hành vi ngôn ngữ nói
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9
chung, hành vi cảm thán nói riêng
- Tìm hiểu các phƣơng tiện thể hiện hành vi cảm thán và các loại hành
vi cảm thán đƣợc Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều.
- Tìm hiểu về vai trò của các hành vi cảm thán trong Truyện Kiều.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hành vi cảm thán và các phƣơng tiện
thể hiện hành vi cảm thán trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong tình hình có nhiều các bản dịch khác nhau về Truyện Kiều, tác giả
luận văn chọn bản dịch Truyện Kiều trong “Từ điển Truyện Kiều” của cố tác giả
Đào Duy Anh (xuất bản tháng 1 năm 1989) làm tƣ liệu khảo sát cho đề tài.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Vận dụng phƣơng pháp này, luận văn sẽ khảo sát bản dịch “Từ điển
Truyện Kiều” trong ngữ cảnh phù hợp để thống kê hành vi cảm thán.
5.2. Phƣơng pháp phân tích văn bản, phân tích diễn ngôn
Phƣơng pháp này giúp cho việc tìm hiểu cấu trúc của các loại hành vi
cảm thán trong Truyện Kiều và vai trò của việc sử dụng chúng trong khi xây
dựng hình tƣợng nghệ thuật của tác giả.
6. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Chương 2: Phƣơng tiện thể hiện hành vi cảm thán và các loại hành vi
cảm thán trong Truyện Kiều
Chương 3: Vai trò của hành vi cảm thán trong Truyện Kiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. LÍ THUYẾT HÀNH VI NGÔN NGỮ
1.1.1. Khái niệm "hành vi ngôn ngữ"
Theo các nhà nghiên cứu, ngƣời đầu tiên xây dựng nên lí thuyết hành vi
ngôn ngữ là nhà triết học ngƣời Anh John.L.Austin, trong cuốn sách đƣợc
công bố sau khi ông qua đời How to do things with words. Ngƣời phát triển lí
thuyết này là nhà triết học J.Searle với công trình Speech Acts.
Dựa trên cơ sở lí luận trong công trình nghiên cứu của Austin và
Searle, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học Việt Nam đã trình bày khái niệm
"hành vi ngôn ngữ" nhƣ sau:
Theo Giáo sƣ Đỗ Hữu Châu: "Khi chúng ta nói năng là chúng ta hành
động, chúng ta thực hiện một loại hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn
ngữ. Một hành động ngôn ngữ được thực hiện khi một người nói (hoặc viết)
Sp1 nói ra một phát ngôn U cho người nghe (hoặc người đọc) Sp2 trong ngữ
cảnh C"[4, tr.88].
Giáo sƣ Nguyễn Thiện Giáp gọi hành vi ngôn ngữ là hành động ngôn
từ, ông cho rằng: "Các hành động được thực hiện bằng lời là hành động ngôn
từ... Hành động ngôn từ chính là ý định về mặt chức năng của một phát ngôn"
[9, tr.337-338].
Giáo sƣ Nguyễn Đức Dân lại quan niệm: "Khi thực hiện một phát ngôn
trong một tình huống giao tiếp cụ thể, qua cung cách phát ngôn và cấu trúc
của nó người nói đã thực hiện những hành vi ngôn ngữ nhất định và người
nghe cảm nhận được điều này. Xảy ra hiện tượng đó vì các hành vi ngôn ngữ
mang tính chất xã hội, được ước chế bởi xã hội"[6, tr.220].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11
Trong "Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học", hành vi ngôn ngữ
đƣợc các nhà nghiên cứu định nghĩa là: "Một đoạn lời nói có tính mục đích
nhất định được thực hiện trong những điều kiện nhất định, được tách biệt
bằng các phương tiện tiết tấu - ngữ điệu và hoàn chỉnh, thống nhất về mặt
cấu âm - âm học mà người nói và người nghe đều có liên hệ với một ý nghĩa
như nhau trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó"[42, tr.107]
Nhƣ vậy, "hành vi ngôn ngữ" chính là một hành động sử dụng ngôn từ
nhằm tác động đến ngƣời tiếp nhận lời trong giao tiếp; nó gắn liền với hoạt
động nói năng của con ngƣời và mang tính chất xã hội.
Austin cho rằng hành động ngôn ngữ có ba loại hành vi lớn là acte
locutoire, acte perlocutoire, acte illocutoire, mà Giáo sƣ Đỗ Hữu Châu đã
dịch là: hành vi tạo lời, hành vi mượn lời và hành vi ở lời.
Hành vi tạo lời: là hành vi tạo ra lời nói bằng các yếu tố của ngôn ngữ
nhƣ ngữ âm, từ, các kiểu kết hợp từ thành câu...theo những quy tắc ngữ pháp
của ngôn ngữ.
Hành vi mượn lời: là hành vi ngƣời nói mƣợn các phát ngôn để gây ra
những hiệu quả ngoài ngôn ngữ, đó là những hiệu quả tâm lí hay vật lí ở
ngƣời tiếp nhận ngôn bản hoặc ở chính ngƣời nói.
Hành vi ở lời: là những hành vi đƣợc thực hiện bằng chính lời nói,
ngay trong lời nói và gây ra đƣợc một phản ứng ngôn ngữ tƣơng ứng với
chúng của ngƣời tiếp nhận. Khác với hành vi mƣợn lời, hành vi ở lời có đích
để phân biệt đƣợc các hành vi ở lời với nhau*.
Nếu đích ở lời đƣợc thoả mãn thì ta có hiệu quả ở lời. Hiệu quả ở lời
đƣợc thể hiện bằng lời hồi đáp của ngƣời tiếp nhận phát ngôn.
Ví dụ 1:
Sp1: Chào cậu ! Lan có trong phòng không ?
Sp2: Có đấy, cậu vào đi.
* Các vấn đề của lí thuyết hành vi ngôn ngữ; các ý kiến của J.L.Austin và J.R.Searle trong
mục này đƣợc chúng tôi dẫn theo Đỗ Hữu Châu [4, tr.88-153]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12
Hiệu quả ở lời của hành vi hỏi trên đây chính là hành vi trả lời "Có
đấy" và hành vi mời "cậu vào đi" của Sp2.
Tuy vậy, có trƣờng hợp hiệu quả ở lời lại là một hành vi mƣợn lời vật lí
nhƣ ví dụ dƣới đây:
Ví dụ 2:
Sp1: Trả tớ cái thƣớc !
Sp2: Đây !
Hành vi yêu cầu trên có hiệu quả ở lời là việc Sp2 đƣa trả cái thƣớc kẻ cho
Sp1. Tuy nhiên, hành vi mƣợn lời vật lí đó vẫn có hành vi ở lời "Đây !" đi kèm.
Theo O.Ducrot, các hành vi ở lời khác với hành vi tạo lời và hành vi
mƣợn lời ở chỗ chúng có khả năng thay đổi tƣ cách pháp nhân của ngƣời
tham gia hội thoại, đặt họ vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình
trạng của họ trƣớc khi thực hiện hành vi ở lời đó.
Các hành vi mƣợn lời và hành vi ở lời mang lại cho các phát ngôn
những hiệu lực nhất định. Nhƣng đối tƣợng mà ngữ dụng học quan tâm chỉ là
hiệu lực của các hành vi ở lời.
Các hành vi ở lời đƣợc chi phối bởi những quy tắc đã đƣợc xã hội ƣớc
chế. Vì vậy, có những điều kiện sử dụng cho mỗi loại hành vi ở lời.
Trong thực tế, để tạo ra một diễn ngôn thì ba loại hành vi: hành vi tạo lời,
hành vi mượn lời và hành vi ở lời phải đƣợc kết hợp đồng thời và thống nhất.
Với đề tài Hành vi cảm thán trong Truyện Kiều, luận văn chỉ tập
trung nghiên cứu tác phẩm ở góc độ hành vi ở lời.
1.1.2. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời
GS Đỗ Hữu Châu định nghĩa: "Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là
những điều kiện mà một hành vi ở lời phải đáp ứng để nó có thể diễn ra thích
hợp với ngữ cảnh của sự phát ngôn ra nó."[4, tr.111].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13
Theo Austin, điều kiện sử dụng các hành vi ở lời là các điều kiện "may
mắn", nếu chúng đƣợc đảm bảo thì hành vi mới "thành công", đạt hiệu quả.
Sau khi điều chỉnh và bổ sung vào những điều kiện may mắn của
Austin, Searle đã gọi chúng là những điều kiện sử dụng hay điều kiện thoả
mãn. Ông cho rằng có bốn điều kiện sử dụng các hành vi ở lời sau:
a. Điều kiện nội dung mệnh đề chỉ ra bản chất nội dung của hành vi.
Nội dung mệnh đề có thể là một mệnh đề đơn giản hay một hàm mệnh đề với
các câu hỏi khép kín. Nội dung mệnh đề có thể là một hành động của ngƣời
nói hay một hành động của ngƣời nghe.
b. Điều kiện chuẩn bị là những hiểu biết của ngƣời nói về năng lực, lợi
ích, trách nhiệm, ý định của ngƣời nghe. Đồng thời, điều kiện chuẩn bị cũng
gồm cả quyền lợi, trách nhiệm, năng lực và quyền lực của ngƣời nói đối với
hành vi ở lời mà họ đƣa ra.
c. Điều kiện chân thành chỉ ra các trạng thái tâm lí tƣơng ứng của
ngƣời phát ngôn. Tức là, khi đƣa ra một phát ngôn, ngƣời thực hiện hành
động ngôn ngữ phải thực lòng làm việc đó; chẳng hạn, khi hỏi phải thực lòng
muốn hỏi, chân thành mong đợi hiệu quả của hành vi ở lời mà họ thực hiện.
d. Điều kiện căn bản là điều kiện đƣa ra trách nhiệm ràng buộc ngƣời
tạo lời cũng nhƣ ngƣời tiếp nhận lời; chẳng hạn, khi trần thuật một sự việc,
ngƣời tạo lời phải chịu trách nhiệm về tính thực hƣ của nó, khi nghe hỏi chân
thành, ngƣời tiếp nhận lời cũng phải trả lời chân thành.
Ví dụ 3:
Nào là gia pháp nọ bay !
Hãy cho ba chục biết tay một lần.
Điều kiện nội dung mệnh đề: Phát ngôn trên là hành vi ra lệnh của
Hoạn bà (Sp1) đối với gia nhân trong nhà (Sp2).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14
Điều kiện chuẩn bị: Sp1 và Sp2 đã biết rõ đƣợc mối quan hệ trên -
dƣới, chủ - tớ, giữa Sp1 và Sp2. Khi ra lệnh, Sp1 tin rằng Sp2 sẽ nhận lệnh và
có khả năng thực hiện đƣợc hành động quy định trong lệnh.
Điều kiện chân thành: Sp1 thực sự mong muốn nội dung lệnh đƣợc thi
hành bởi Sp2.
Điều kiện căn bản: Khi nội dung mệnh lệnh đƣợc phát ra, Sp1 đã tạo
nên mối ràng buộc giữa Sp1 và Sp2, buộc Sp2 phải có trách nhiệm thực hiện
lệnh bằng chính hành động thực thi mệnh lệnh của Sp2. Đáp lại hành vi ra
lệnh của Hoạn bà là việc đám gia nhân đánh đập Thuý Kiều rất dã man. Phát
ngôn này thuộc hành vi ở lời trực tiếp.
Ví dụ 4:
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi ngƣời một vẻ, mƣời phân vẹn mƣời
Điều kiện nội dung mệnh đề: Nội dung trên là hành động trần thuật
(khẳng định) của ngƣời kể chuyện (Sp1) với ngƣời nghe (Sp2).
Điều kiện chuẩn bị: Sp1 đã có bằng chứng để cho rằng điều mình thuật
lại là chính xác. Đồng thời Sp1 và Sp2 đều cho rằng Sp2 không biết nội dung
mà Sp1 sẽ nói.
Điều kiện chân thành: Sp1 tin rằng thông tin mà mình đƣa ra là chính xác.
Điều kiện căn bản: Thông qua nội dung tƣờng thuật, Sp1 nói cho Sp2
biết rằng mệnh đề mình nói ra phản ánh đúng một hiện thực.
Ví dụ trên là một hành động kể trực tiếp vì đƣợc sử dụng đúng với mục
đích trần thuật.
Ví dụ 5: Cớ sao trằn trọc canh khuya,
Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mƣa ?
Điều kiện nội dung mệnh đề: Đây là hành động hỏi của cha mẹ đối với
Thuý Kiều.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15
Điều kiện chuẩn bị: Ông bà Vƣơng viên ngoại không hiểu vì sao Kiều
lại thao thức, khóc lóc sụt sùi trong đêm.
Điều kiện chân thành: Họ thực sự muốn biết lí do khiến nàng "trằn trọc
canh khuya".
Điều kiện căn bản: Cha mẹ Kiều đặt câu hỏi với nàng là để Kiều nói ra
nỗi niềm tâm sự của mình, thoả mãn điều mà họ đang thắc mắc. Đáp lại hành
động hỏi chân thành của cha mẹ, Kiều đã thuật lại sự việc thăm mả Đạm Tiên,
giấc mơ gặp Đạm Tiên với nỗi lo lắng, sợ hãi mơ hồ cho số phận của nàng.
Chúng tôi xác định: Đây là một hành động hỏi trực tiếp vì câu hỏi đƣợc
sử dụng đúng mục đích, đúng với điều kiện chân thành của nó.
Qua sự phân tích các ví dụ trên, có thể khẳng định rằng: Một trong
những dấu hiệu nhận biết các hành vi ở lời là dựa vào các điều kiện sử dụng
hành vi ở lời.
Căn cứ vào các hành vi ngôn ngữ, ngƣời ta chia ra hai loại: hành vi ở
lời trực tiếp và hành vi ở lời gián tiếp.