Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 
486 
_______ 
Hệ thống cảng biển phía bắc Việt Nam (Nhóm I) 
và một số vấn đề về quản lý 
Phạm Văn Vỵ 
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Cảng biển có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hàng hải. Hệ thống cảng 
phía bắc từ Quảng Ninh tới Ninh Bình (Nhóm I) đang góp phần tích cực vào việc phát triển kinh 
tế-xã hội của miền Bắc nước ta. Hiện nay, việc đầu tư vào phát triển cảng biển dàn trải, hệ thống 
giao thông không đồng bộ, có nhiều ảnh hưởng bất lợi tới môi trường biển đã làm hạn chế vai trò 
của cảng biển ở khu vực. Việt Nam cần có chiến lược phát triển và biện pháp quản lý thích hợp đối 
với hệ thống cảng biển cả nước nói chung và khu vực phía bắc nói riêng. 
1. Đặt vấn đề∗
Đối với nước ta hiện nay, kinh tế biển nói 
chung và kinh tế hàng hải nói riêng luôn đóng 
vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và 
bảo vệ tổ quốc. Với tiềm năng tự nhiên và kinh 
tế-xã hội (KT-XH) sẵn có, ngành kinh tế hàng 
hải nước ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để 
phát triển. Suốt chiều dài trên 3.260 km đường 
bờ biển, có nhiều vị trí phù hợp để xây dựng 
cảng, trong đó một số nơi có thể xây dựng cảng 
trung chuyển quốc tế, phát triển đội tàu vận tải 
biển để trao đổi hàng hóa với các nước. 
Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09-02-2007 
của Hội nghị Trung ương 4 khóa X về Chiến 
lược biển Việt Nam đến năm 2020 đã xác định 
rõ ngành kinh tế hàng hải được ưu tiên thứ hai 
trong thứ tự phát triển kinh tế biển, chỉ đứng 
sau khai thác và chế biến dầu khí. Trong đó, 
việc phát triển hệ thống cảng biển đang được 
đặc biệt quan tâm [4]. 
∗ ĐT: 84-4-38584943. 
 E-mail: 
[email protected] 
Hệ thống cảng biển phát triển phục vụ đắc 
lực cho nhu cầu trao đổi hàng hóa trong nước 
và quốc tế của nước ta. Tuy nhiên, cùng với 
việc góp phần vào phát triển KT-XH thì hệ 
thống cảng biển cũng gây ra những tác động bất 
lợi tới chất lượng môi trường, ngành du lịch, 
ngành nuôi trồng thủy sản, v.v… Mặt khác, 
việc đầu tư phát triển cảng biển nếu chỉ quan 
tâm đến số lượng mà không tập trung nâng cao 
chất lượng và biện pháp quản lý phù hợp sẽ gây 
lãng phí cho ngân sách nhà nước. Vì vậy, việc 
quy hoạch, phát triển cảng biển cần rất thận 
trọng, luôn đặt mục tiêu phát triển bền vững lên 
hàng đầu. Trong bài báo này sẽ phân tích về hệ 
thống cảng biển phía Bắc (Nhóm I) từ Quảng 
Ninh tới Ninh Bình (hình 1) và đưa ra một số 
kiến nghị về quản lý và bảo vệ môi trường. 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 487
2. Hệ thống cảng biển Khu vực I từ Quảng 
Ninh tới Ninh Bình 
Theo Quyết định số 202/1999/ QĐ-TTg 
ngày 12 tháng 10 năm 1999 của Thủ tướng 
Chính phủ về việc “Phê duyệt hệ thống cảng 
biển Việt Nam” thì hệ thống cảng biển của Việt 
Nam được chia làm 8 nhóm. Trong đó, nhóm 
cảng biển phía Bắc thuộc Nhóm I, bao gồm các 
cảng từ Quảng Ninh tới Ninh Bình (bảng 1). 
Việc nâng cấp và phát triển cảng biển Nhóm I 
không những góp phần to lớn vào sự phát triển 
kinh tế xã hội ở miền Bắc nước ta mà còn được 
dự báo sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu 
cho khu vực phía Tây nam của Trung Quốc 
phát triển hơn. Cảng nước sâu ở Hải Phòng, 
Quảng Ninh có thể giúp rút ngắn quãng đường 
vận chuyển hàng hóa ra vào khu vực Tây nam 
của Trung Quốc tới 800km, khuyến khích các 
doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn Việt Nam 
làm điểm đến thứ hai, để giảm bớt chi phí và rủi 
ro đầu tư vào Trung Quốc. Trong tương lai, Hải 
Phòng sẽ trở thành cảng cửa ngõ quốc tế và 
Hòn Gai - Quảng Ninh là cảng đầu mối khu 
vực[1].
Hình 1. Phân nhóm hệ thống cảng biển Việt Nam[4]. 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 488
2.1. Hệ thống cảng thuộc Thành phố Hải Phòng 
Thành phố Hải Phòng là thành phố cảng 
biển lâu đời, nằm ở vị trí trung tâm vùng duyên 
hải Bắc Bộ, trong tam giác phát triển kinh tế 
trọng điểm Hà Nội - Quảng Ninh - Hải Phòng. 
Đây là đầu mối giao thông quan trọng và cửa 
ngõ chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, giao 
lưu thuận lợi với các địa phương trong nước và 
quốc tế. Hệ thống cảng Hải Phòng lớn thứ hai 
Việt Nam sau cảng Sài Gòn với sản lượng hàng 
hoá thông qua cảng tăng liên tục hàng năm và 
đến năm 2008 đã đạt gần 30 triệu tấn. Trong đó, 
riêng Cảng Hải Phòng (khu cảng chính) đạt sản 
lượng cao nhất đến 13,9 triệu tấn. 
Bảng 1. Một số cảng biển phía Bắc thuộc Cục hàng hải quản lý [4] 
STT Tên cảng Đơn vị khai thác Loại cảng 
1 Hải Phòng (cảng chính) Cảng Hải Phòng Tổng hợp 
2 Thượng Lý Cảng Hải Phòng Tổng hợp 
3 B12 Cảng xăng dầu B12 Chuyên dùng dầu khí 
4 Mũi Chùa Cty vận tải và Xếp dỡ Quảng Ninh Tổng hợp 
5 Cẩm Phả Công ty Cảng và Kinh Doanh than Tổng hợp 
6 Hòn Gai Ban quản lý cảng Hòn Gai Khách 
7 Cái Lân Cảng Quảng Ninh Tổng hợp 
8 Chùa Vẽ Cảng Hải Phòng Tổng hợp 
9 Vật Cách Cty cổ phần cảng Vật Cách Tổng hợp 
10 Đoạn Xá Cty cổ phần cảng Đoạn Xá Tổng hợp 
11 Cửa Cấm Xí nghiệp cảng Cửa Cấm Tổng hợp 
12 Thượng Lý Cty Xây dựng khu vực III Chuyên dùng dầu khí 
13 Đài Hải Cty Liên doanh dầu khí Đài Hải Chuyên dùng dầu khí 
14 Total Gas Hải Phòng Cty Liên doanh Total Gas Hải Phòng Chuyên dùng dầu khí 
15 Petex Xí nghiệp xăng dầu Petex An Hải Chuyên dùng dầu khí 
16 Thăng Long Cty Liên doanh khí hoá lỏng Thăng Long Chuyên dùng dầu khí 
17 Caltex Cty TNHH nhựa Caltex Chuyên dùng dầu khí 
18 Ximăng Chinfon HP Cty Liên doanh ximăng Chinfon Xi măng 
19 Transvina Cty TNHH vận tải Công nghệ cao Tổng hợp 
20 Diêm Điền Ban quản lý cảng Diêm Điền Tổng hợp 
21 Hải Thịnh Cty cảng Hải Thịnh Tổng hợp 
Hiện nay, chính phủ Việt Nam đang có kế 
hoạch nâng cấp cảng Hải Phòng trở thành cảng 
cửa ngõ quốc tế. Khu bến Lạch Huyện sẽ được 
xây dựng làm cảng tổng hợp và cảng conteiner. 
Đây sẽ là khu bến chính của cảng Hải Phòng có 
năng lực tiếp nhận tàu 50 nghìn đến 80 nghìn 
DWT vào năm 2020. Khu bến Đình Vũ cũng sẽ 
được nạo vét, cải tạo để có thể tiếp nhận được 
tàu 20 nghìn đến 30 nghìn DWT. Khu bến Yên 
Hưng (Yên Trạch, đầm nhà Mạc) sẽ được xây 
dựng làm bến chuyên dùng có thể tiếp nhận tàu 
30 nghìn tới 40 nghìn DWT. Ngoài ra, còn có 
bến Nam Đồ Sơn chuyên dùng cho an ninh 
quốc phòng. 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 489
Cảng Hải Phòng được xây dựng theo tiêu 
chuẩn chất lượng cao và chia theo từng khu vực 
chuyên dùng phù hợp với điều kiện bảo quản, 
xếp dỡ, vận chuyển từng loại hàng hoá. Tuy 
nhiên, lượng hàng hóa qua cảng chuyển đi các 
nơi khác chủ yếu vẫn bằng đường bộ. Mạng 
lưới đường sắt hiện nay còn hạn chế kết nối với 
cảng. Thêm nữa, luồng tàu bị bồi lắng hàng 
năm ở Hải Phòng luôn là vấn đề bức xúc, khó 
giải quyết do kinh phí nạo vét rất lớn[3]. 
2.2. Hệ thống cảng thuộc tỉnh Quảng Ninh 
Quảng Ninh là một cực tăng trưởng trong 
tam giác kinh tế phía Bắc (Hà Nội, Hải Phòng, 
Quảng Ninh). Đây là nơi giàu tài nguyên 
khoáng sản với trữ lượng lớn như: than, đá vôi, 
quặng… tạo tiền đề cho việc phát triển các 
ngành công nghiệp điện, vật liệu xây dựng, chế 
biến nông, lâm, hải sản, may mặc... Quảng 
Ninh có bờ biển dài, có nhiều vịnh nước sâu 
được bao kín bởi các hòn đảo nhỏ nằm sát đất 
liền, kín gió, lại tập trung nhiều đầu mối giao 
thông nên được đánh giá là nhiều tiềm năng về 
phát triển kinh tế cảng biển. Quảng Ninh có đa 
dạng các loại cảng như cảng tổng hợp Cái Lân, 
cảng chuyên dụng than như cảng Cửa Ông, 
cảng Cẩm Phả, cảng tàu khách Hòn Gai phục 
vụ du lịch vịnh Hạ Long,… Trong đó, cảng Cái 
Lân và Cửa Ông là các cảng nước sâu, cho phép 
tàu lớn có thể ra vào. 
Tuy nhiên tình trạng chung là các cảng này 
đều chưa đáp ứng đủ công suất do hạ tầng cơ sở 
vùng hậu phương cảng chưa đáp ứng được nhu 
cầu. Quốc lộ 18A mặc dù đã được nâng cấp 
nhưng vẫn còn hẹp và qua nhiều khu vực dân 
cư. Mạng lưới đường sắt hiện nay vẫn chưa nối 
đến cảng Cái Lân, đặc biệt là đoạn đường sắt 
Yên Viên - Hạ Long có khổ đường 1,435 m 
chưa hòa mạng quốc gia được (vì mạng lưới 
quốc gia có khổ đường là 1,05 m). Chính vì vậy 
làm ảnh hưởng rất lớn đến lưu thông hàng hóa, 
đặc biệt các loại hàng quá khổ, hàng container. 
2.3. Các cảng thuộc tỉnh Ninh Bình, Nam Định 
và Thái Bình 
Hiện nay, Ninh Bình chưa có cảng biển, hầu 
hết các cảng thuộc tỉnh này đều là cảng nhỏ, 
cảng sông. Thái Bình và Nam Định đều mong 
muốn phát triển hai cảng biển hiện có của mình 
là: cảng Diêm Điền (Thái Bình) và cảng Hải 
Thịnh (Nam Định). Tuy nhiên, các địa phương 
này hiện đang đóng vai trò quan trọng trong sản 
xuất nông nghiệp và cung cấp lương thực của 
vùng đồng bằng Bắc Bộ. Đặc biệt, diện tích đất 
trồng lúa của hai tỉnh Thái Bình và Nam Định 
rất lớn, gần như gấp đôi diện tích ba tỉnh Quảng 
Ninh, Hải Phòng và Ninh Bình gộp lại. Nuôi 
trồng thủy sản của hai tỉnh này cũng rất phát 
triển. Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch 
phong phú, có thể coi đây là lĩnh vực kinh tế 
mũi nhọn. Tỉnh lại có lợi thế phát triển ngành 
nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần. Vì vậy, 
các tỉnh này cần xem xét kỹ việc phát triển cảng 
biển để tập trung thế mạnh của mình vào những 
ngành chủ lực tránh xảy ra xung đột quyền lợi 
giữa các ngành kinh tế. 
Cảng biển đang đem lại nguồn lợi lớn cho 
kinh tế nước ta. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế 
cảng đã và đang gây ô nhiễm môi trường, làm 
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế- xã hội. Vì 
vậy, khi phát triển hệ thống cảng biển cần 
hướng tới phát triển bền vững. 
3. Một số vấn đề về quản lý cảng và bảo vệ 
môi trường 
Hàng năm tàu thuyền đến các bến cảng Việt 
Nam tăng cả về số lượng và kích cỡ. Theo đó, 
hàng hoá thông qua hệ thống cảng cũng gia 
tăng đáng kể về số lượng và chủng loại, kéo 
theo là sự phát triển của các ngành: dịch vụ 
hàng hải, vận tải biển, đóng tàu, nghề cá… đem 
lại nguồn lợi lớn cho kinh tế nước ta. 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 490
Tuy nhiên, trong khi xu thế chính của hệ 
thống cảng biển thế giới trong quan hệ ngoại 
thương là phát triển cảng nước sâu (độ sâu 
luồng trên 16m) thì Việt Nam hầu như mới chỉ 
phát triển các cảng với độ sâu luồng đến 10 - 12 
mét. Container, dầu là hai mặt hàng chủ lực của 
đất nước nhưng hiện nay chúng ta gần như chưa 
phát huy được lợi thế đó. Càng chậm triển khai 
các cảng nước sâu, đạt tiêu chuẩn quốc tế tức là 
mỗi năm chúng ta đang làm mất đi hàng tỷ 
USD cho nền kinh tế đất nước. Hiện nay, các 
hàng xuất khẩu, container của Việt Nam hầu hết 
phải trung chuyển tại các cảng Singapore, Hồng 
Kông… vì các cảng ở khu vực phía Bắc nói 
riêng và của cả nước ta nói chung không cho 
phép tầu loại trên 4000 TEU (mớn nước khoảng 
11,5 mét) vào bốc dỡ được bởi độ sâu luồng 
hoặc chỗ quay tầu không đủ sâu để đáp ứng. 
Điều đó làm tăng giá thành hàng xuất nhập 
khẩu cuả Việt Nam mà lẽ ra có thể rẻ hơn hàng 
của nhiều nước khác trong khu vực. Vận tải và 
bốc xếp trung chuyển làm cho chi phí vận tải 
tăng thêm tới 28%, làm mất đi những lợi thế so 
sánh mà Việt Nam có thể đưa ra để thu hút các 
nhà đầu tư nước ngoài[2]. 
Vốn đầu tư vào cảng biển nước ta chủ yếu 
còn từ ngân sách hoặc doanh nghiệp Nhà nước 
nên hiệu quả thấp. Cảng biển là doanh nghiệp, 
với chức năng kinh doanh mà mục tiêu là lợi 
nhuận. Tuy nhiên, không phải nơi nào cũng có 
thể xây dựng được cảng mà cần có những điều 
kiện nhất định, hơn nữa thủ tục đầu tư phức tạp, 
cơ chế Xin – Cho chậm được sửa đổi đã hạn 
chế thành phần kinh tế ngoài Nhà nước khó đầu 
tư vào hệ thống cảng biển Việt Nam. 
Quản lý Nhà nước đã được quy định trong 
luật Hàng hải, luật Hải quan… tuy nhiên, cơ 
chế quản lý giá, phí rất quan trọng thì chúng ta 
cũng không làm như nước ngoài. Các doanh 
nghiệp cảng tự công bố giá, Nhà nước công bố 
phí. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới các điều 
kiện giao hàng trong ngoại thương, góp phần 
làm cho đất nước mất quyền vận tải mỗi năm 
hàng triệu USD. Thêm nữa, thiết bị chuyên 
dùng xếp dỡ hàng hoá ít, mạng lưới giao thông 
chưa đồng bộ, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng 
tiêu chuẩn cảng quốc tế, thiếu lực lượng và các 
phương tiện ứng cứu sự cố tại bến cảng cũng là 
một nguyên nhân khiến kinh tế cảng biển nước 
ta chưa phát huy được tối đa năng lực của nó. 
Khi có sự cố xảy ra ở cảng thường để lại hậu 
quả lớn, thiệt hại rất nhiều cho nền kinh tế. Việc 
bảo hiểm chậm chi trả cho sự cố kéo theo sự 
chậm trễ về nhiều mặt trong hoạt động cảng 
biển. Chi phí cho việc giải quyết các tai nạn 
hàng hải và vấn đề nạo vét luồng tàu bị bồi lắng 
cũng rất lớn[3]. 
Sự phát triển cảng biển gây tác động tiêu 
cực đến chất lượng môi trường, từ đó ảnh 
hưởng tới hệ động thực vật, sức khoẻ con người 
và các di tích lịch sử văn hóa…Trong thời gian 
ngắn nước ta đã xây dựng thêm nhiều bến cảng, 
thực tế là không gian phát triển cảng thường 
xây dựng ở những nơi có các hệ sinh thái nhạy 
cảm và có giá trị. Ví dụ, khi xây dựng cảng Cái 
Lân (Quảng Ninh) đã nạo vét luồng cảng chạm 
qua vịnh Hạ Long- danh thắng nổi tiếng được 
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế 
giới. Việc nạo vét luồng này đã tác động xấu tới 
hệ sinh thái đáy biển; cảng Hải Phòng được xây 
dựng gần khu vực nhạy cảm, nhiều hệ sinh thái 
có giá trị như là cửa sông Bạch Đằng, khu dự 
trữ sinh quyển Cát Bà, bán đảo Đồ Sơn nên tác 
động của cảng tới môi trường cũng rất lớn. Việc 
mở rộng cảng cùng với các công trình khu vực 
cảng góp phần làm suy giảm các hệ sinh thái 
ven biển (cửa sông, vùng triều, rừng ngập mặn, 
cỏ biển). 
Mặc dù có quy định về bảo vệ môi trường ở 
các cảng biển của Cục Hàng hải Việt Nam như 
việc cấm xả thải chất thải trong khu vực 
cảng[4], nhưng việc xả nước dằn tàu nhiễm dầu 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 491
và các chất thải khác xuống khu vực cảng vẫn 
xảy ra thường xuyên. Bên cạnh đó, lợi dụng 
chính sách khuyến khích nhập nguyên liệu phục 
vụ sản xuất trong nước nhiều doanh nghiệp đã 
nhập khẩu phế liệu, rác thải vào Việt Nam 
thông qua các cảng và cảng Hải Phòng được 
xem như một trọng điểm về tạm nhập, tái xuất 
phế liệu thải trong cả nước. 
4. Kết luận và kiến nghị 
Các tỉnh ven biển khu vực phía bắc nước ta 
hiện nay đều có mong muốn nâng cấp và phát 
triển hệ thống cảng biển địa phương để đẩy 
mạnh phát triển kinh tế. Tuy nhiên, việc quy 
hoạch, quản lý hệ thống các cảng phía bắc còn 
nhiều bất cập. Cơ chế quản lý cảng biển và cơ 
sở hạ tầng cảng biển còn chưa thống nhất. Nhìn 
chung, hệ thống cảng phía Bắc chưa phát triển 
đúng tầm của nó, khả năng tiếp nhận hàng hoá 
hàng năm vẫn còn nhiều hạn chế. 
Chất lượng môi trường biển và vùng ven 
biển ở gần cảng tiếp tục bị suy giảm do hoạt 
động của cảng vì không có một quyết sách bảo 
vệ môi trường cảng thật rõ ràng. Đặc biệt, nguy 
cơ ô nhiễm dầu tại khu vực cảng và xung quanh 
đó là rất cao, có thể dẫn đến nhiều tác động xấu 
tới sự phát triển tổng thể của địa phương. 
Yếu tố tự nhiên và KT-XH thuận lợi để phát 
triển hệ thống cảng biển ở khu vực phía bắc chỉ 
là điều kiện cần. Phải tập trung nâng cao chất 
lượng cảng biển nếu không sẽ là thất bại khi 
cảng có quy mô vốn đầu tư lớn mà chỉ có được 
lượng hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam. Cần 
phải thu hút được các chủ hàng, các hãng tàu 
biển quốc tế để trở thành điểm trung chuyển 
hàng hóa lớn của khu vực thông qua chất lượng, 
giá thành dịch vụ. Muốn vậy, cùng với việc đầu 
tư xây dựng cảng thì đồng thời phải phát triển hệ 
thống cơ sở hạ tầng liên quan, đặc biệt là giao 
thông và dịch vụ đi kèm để nâng cao năng lực 
phục vụ của cảng. Cần phát triển đồng bộ mạng 
lưới đường bộ, đường sắt và đường sông. 
Giảm thiểu các thủ tục hành chính cho tầu 
biển. Cần có quản lý giá, phí theo thông lệ quốc 
tế. Sớm có Luật về cảng biển để hình thành hệ 
thống cảng phù hợp với xu thế phát triển cảng 
biển quốc tế. Cùng với quá trình phát triển KT-
XH, các cảng khu vực phía bắc cần phải chú 
trọng hơn nữa trong việc bảo vệ môi trường, hệ 
sinh thái, đặc biệt là hệ sinh thái ven biển, khai 
thác và sử dụng hợp lý điều kiện tự nhiên ở các 
cửa sông, vùng ven biển kết hợp với xử lý ô 
nhiễm, cải thiện môi trường biển. 
Một số địa phương ven biển có xu hướng 
tập trung phát triển một số ngành kinh tế khác 
nên đánh giá, xem xét kỹ mức độ rủi ro có thể 
xảy ra do mâu thuẫn với phát triển cảng biển để 
đưa ra quyết sách đúng đắn nhất cho địa 
phương. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đặng Quang Liên, Phân loại cảng biển và vấn 
đề cảng nước sâu ở Việt Nam, NXB Xây dựng, 
Hà Nội, 2008. 
[2] Nguyễn Văn Sơn, Lê Thị Nguyên, Tổ chức và 
khai thác cảng, Trường Đại học Hàng Hải, Hải 
Phòng, 1998. 
[3] www.vietmarine.org – Diễn đàn Hàng hải Việt 
Nam 
[4] www.vpa.gov.vn – Hiệp hội cảng biển Việt Nam 
P.V. Vỵ / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 486‐492 492
Arranging and managing seaport in the North of Vietnam 
(Group I) 
Pham Van Vy 
Faculty of Hydro-Meteorology & Oceanography, Hanoi University of Science, VNU, 
334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam
Seaport is occupying an important position in marine transport. Seaports of Group I (from Quang 
Ninh province to Ninh Binh province) are contributing to socioeconomic development in the North of 
Vietnam. Nowadays, it is not good in investing a much money with seaport system, being marine 
environment pollution from seaport,… Arranging and managing seaports in the North of Vietnam 
(Group I) are very necessary. 
 Keywords: seaport, Group I, environment