Việc hoạch định tiến độ dự án xây dựng là một trong những bước cơ bản của việc quản lý dự án. Có thể nói rằng tất cả dự án xây dựng đều đòi hỏi phải có hoạch định. Hoạch định là một trong những chức năng chính của quản lý, nghĩa là nhà quản lý dự án phải lập kế hoạch dự báo và có kế hoạch tác động đến những sự kiện trong tương lai. Nếu nhà quản lý dự án không thực hiện công việc này ngay từ lúc đầu, khi ấy nhà quản lý dự án không thể kiểm soát được dự án. Hơn nữa, việc hoạch định tiến độ là cách thức để xác định thời gianhoàn thành dự án một cách chính xác, kiểm tra tiến độ thực hiện dự án sau này cũng như việc sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất trong việc quản lý các dự án xây dựng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 133 trang
133 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1762 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạch định tiến độ dự báo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Trang 1 
CHƢƠNG I 
MỞ ĐẦU 
Chương I Trang 2 
CHƢƠNG I 
MỞ ĐẦU 
1.1 Giới thiệu: 
Việc hoạch định tiến độ dự án xây dựng là một trong những bước cơ bản của 
việc quản lý dự án. Có thể nói rằng tất cả dự án xây dựng đều đòi hỏi phải có hoạch 
định. Hoạch định là một trong những chức năng chính của quản lý, nghĩa là nhà 
quản lý dự án phải lập kế hoạch dự báo và có kế hoạch tác động đến những sự kiện 
trong tương lai. Nếu nhà quản lý dự án không thực hiện công việc này ngay từ lúc 
đầu, khi ấy nhà quản lý dự án không thể kiểm soát được dự án. Hơn nữa, việc hoạch 
định tiến độ là cách thức để xác định thời gian hoàn thành dự án một cách chính 
xác, kiểm tra tiến độ thực hiện dự án sau này cũng như việc sử dụng nguồn lực một 
cách hiệu quả nhất trong việc quản lý các dự án xây dựng. 
Trong hầu hết các dự án xây dựng, việc đạt được mục tiêu đề ra ban đầu bao giờ 
cũng là mong muốn cuối cùng của tất cả nhà quản lý. Việc quản lý dự án thực sự là 
một nghệ thuật cũng như khoa học đối nhà quản lý. Một dự án được xem là thành 
công khi đạt được các yếu tố chủ yếu sau: 
 Hoàn thành trong thời hạn qui định. 
 Hoàn thành trong chi phí cho phép. 
 Đạt được thành quả mong muốn. 
 Sử dụng nguồn lực có sẵn hay được giao một cách hiệu quả, hữu hiệu và đáp 
ứng nhu cầu của khách hàng. 
Muïc tieâu
Chi phí
Thaønh quaû
Thôøi gian
Thôøi haïn
quy ñònh
Yeâu caàu
thaønh quaû
Ngaân saùch
cho pheùp 
Hình 1.1 Các mục tiêu chính của dự án 
Chương I Trang 3 
Hoạch định là công việc ban đầu và có ý nghĩa quan trọng cho sự thành công 
của dự án. Trong bất cứ dự án xây dựng nào cũng bao gồm các công tác hoạch định 
chính như sau: 
3 COÂNG TAÙC HOAÏCH ÑÒNH CHÍNH
Tieán ñoä Nguoàn löïcChi phí
Hình 1.2 Ba công tác hoạch định chính của dự án 
Như vậy, cùng với hoạch định chi phí và hoạch định nguồn lực, việc hoạch định 
thời gian dự án là công việc khó khăn và cần làm trước tiên cho bất cứ nhà quản lý 
nào. Đặc biệt đối với những dự án có các công tác lặp lại (sẽ được định nghĩa trong 
phần sau), việc hoạch định chúng sẽ khó khăn hơn do đặc thù của những dự án loại 
này khi có nhiều ràng buộc được xem xét cùng lúc. Hơn nữa, việc hoạch định 
thường liên quan đến nhiều yếu tố rủi ro, không chắc chắn (một bản chất cố hữu của 
bất cứ dự án xây dựng nào) đòi hỏi nhà quản lý phải có một kiến thức sâu rộng, am 
tường về phạm vi công việc, mức độ phức tạp của dự án… và một ít kinh nghiệm 
trong vấn đề này. 
Trong điều kiện ngày nay, nếu những yếu tố mức độ cạnh tranh và độ phức tạp 
của các khu vực được xem xét kết hợp với tính độc đáo của những dự án xây dựng, 
việc lên kế hoạch và hoạch định trở thành một thủ tục quan trọng và cần thiết cho sự 
thành công của dự án khi mà mục tiêu của dự án và ngân sách cho phép là mối quan 
tâm hàng đầu. 
1.2 Lý do hình thành đề tài: 
Việc hoạch định tiến độ dự án là một trong những bước cơ bản của việc quản lý 
dự án. Nó là cách thức để xác định thời gian hoàn thành dự án một cách chính xác, 
kiểm tra tiến độ thực hiện dự án sau này cũng như việc sử dụng nguồn lực một cách 
hiệu quả nhất trong việc quản lý các dự án xây dựng. Trong tình hình phát triển 
Chương I Trang 4 
mạnh mẽ của ngành xây dựng ở nước ta, những công trình có quy mô càng lớn cả 
về khối lượng công việc cũng như mức độ phức tạp của dự án ngày càng nhiều. Mỗi 
dự án đều có những đặc điểm riêng biệt không dự án nào giống dự án nào tuy nhiên 
một số dự án có đặc thù riêng với các công tác được lặp lại trong những khu vực 
khác nhau (thường được gọi là các đơn vị - units). Do đặc thù này, cần có một công 
cụ hay biện pháp xem xét đến đặc điểm lặp lại để có thể hoạch định tiến độ tốt hơn 
với những dự án loại này. 
Ngoài ra một đặc điểm nổi bật khác là những dự án này thường kéo dài hơn một 
năm thậm chí hai hay ba năm. Do phải thực hiện trong một khoảng thời gian dài 
như thế và chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố rủi ro, không chắc chắn (những 
thuộc tính cố hữu của các dự án xây dựng) có thể xảy ra bất cứ thời gian nào trong 
toàn bộ quá trình của dự án, việc lên kế hoạch ngay từ giai đoạn ban đầu là một 
trong những bước cơ bản đầu tiên của việc quản lý dự án. Nó là cách thức để xác 
định thời gian hoàn thành dự án một cách chính xác, kiểm tra tiến độ thực hiện dự 
án sau này cũng như việc sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất trong việc 
quản lý các dự án xây dựng. Nếu thực hiện tốt việc hoạch định tiến độ ngay từ giai 
đoạn ban đầu sẽ giúp người quản lý chủ động hơn trong việc dự báo những khả 
năng có thể xảy ra trong tương lai và có chiến lược phù hợp để đáp ứng nó. 
Với những phương pháp tất định và các phương pháp xác suất phổ biến khác đã 
biết như phương pháp đường găng (CPM), phương pháp sơ đồ thanh ngang (Bar 
Chart), phương pháp đường cân bằng (Line of Balance - LOB), phương phương 
hoạch định tuyến tính (RSM) hoặc phương pháp PERT thì không đủ khả năng để 
đánh giá việc hoạch định dự án xây dựng dưới sự ảnh hưởng sâu rộng bởi rủi ro, 
mức độ không chắc chắn, những tình huống không mong đợi, sự sai lệch và những 
nhân tố ngẫu nhiên khác. Về mặt này, với mong muốn đưa ra một công cụ hay một 
phương pháp giúp nhà quản lý có thể hoạch định tốt, luận văn này giới thiệu một 
mô hình đề xuất (MHĐX) mới dựa trên nền tảng mô phỏng – mô hình phân tích rủi 
ro việc hoạch định tương quan – để đánh giá việc hoạch định tiến độ dự án xây 
dựng cho những dự án có công tác lặp lại (nghiên cứu này chỉ tập trung nghiên cứu 
vào các dự án xây dựng tuyến đường, nhà cao tầng) để đánh giá công việc xây dựng 
dưới sự xem xét yếu tố không chắc chắn khi thời gian công việc và nhân tố rủi ro là 
Chương I Trang 5 
tương quan với nhau. Trong đó mô hình mới dựa trên nền tảng mô phỏng - mô hình 
phân tích rủi ro việc hoạch định tương quan – để đánh giá sơ đồ hoạch định tuyến 
tính công việc xây dựng dưới sự xem xét yếu tố không chắc chắn khi thời gian công 
việc và nhân tố rủi ro là tương quan với nhau. 
1.3 Mục tiêu nghiên cứu: 
Mục tiêu chính của luận văn này nghiên cứu này là tập trung vào 2 vấn đề sau: 
1.3.1 Nghiên cứu hoạch định tiến độ dự án xây dựng có công tác lặp lại 
dưới sự ràng buộc của nguồn lực trên cơ sở xem xét ràng buộc về mặt kỹ 
thuật (tính logic), tính liên tục của tổ đội và tính có sẵn của tổ đội trên công 
trường. Không như những phương pháp hoạch định truyền thống (CPM, 
PERT) chỉ quan tâm đến thời gian hoàn thành dự án mà không quan tâm hay 
ít quan tâm đến vấn đề nhân lực. Phương pháp đề xuất này tập trung vào vấn 
đề nguồn lực. Nói cách khác, nguồn lực sẽ đóng vai trò quan trọng nhất trong 
việc hoạch định cho các dự án loại này. Bên cạnh đó, một khái niệm mới 
cũng được nêu ra và được áp dụng vào thuật toán đó là hoạch định dƣới sự 
ràng buộc của nguồn lực – phƣơng pháp hệ thống kéo sẽ được trình bày 
chi tiết trong phần sau. 
1.3.2 Nghiên cứu hoạch định tiến độ dự án xây dựng có xem xét đến yếu tố 
rủi ro. Rủi ro đã từ lâu được nhận diện luôn luôn xuất hiện trong các dự án 
xây dựng (rủi ro cũng được hiểu là thuộc về bản chất cố hữu của dự án xây 
dựng). Đây là một phương pháp mới kết hợp được yếu tố rủi ro và mối tương 
quan của những nhân tố rủi ro vào việc hoạch định dự án dạng lặp lại. Trên 
cơ sở những vấn đề đã được giới thiệu ở trên, các yếu tố chính sau đây sẽ lần 
lượt được xem xét: 
 Nghiên cứu sơ đồ mạng dự án xây dựng và sơ đồ hoạch định tuyến tính 
dưới sự tác động của các yếu tố rủi ro (bên cạnh các yếu tố khác như tính 
liên tục của tổ đội, tính có sẵn của tổ đội và các yếu tố về kỹ thuật). 
 Mối tương quan của các công tác với cùng một yếu tố rủi ro cũng như tìm 
hiểu sự tác động tương quan của các yếu tố rủi ro đến thời gian hoàn 
thành của dự án. 
Chương I Trang 6 
 Phân tích độ nhạy rủi ro đối với từng công tác và thời gian dự án. 
 So sánh kết quả của MHĐX với hoạch định tất định. 
 Nghiên cứu ứng dụng vào trong thực tế đối với một ví dụ áp dụng tiêu 
biểu để chứng minh tính khả thi của phương pháp đề xuất và nhằm giúp 
những người quan tâm có thể ứng dụng tốt hơn. 
1.4 Tầm quan trọng của nghiên cứu: 
Trãi qua nhiều thập niên, việc hoạch định tiến độ thường được dựa vào các 
phương pháp như CPM, PERT hay sơ đồ thanh ngang. Các phương pháp này có 
nhiều ưu điểm tuy nhiên các phương pháp này không thích hợp cho việc ứng dụng 
trong các dự án có công tác lặp lại. Vì chúng là những phương pháp hoạch định 
ràng buộc bởi thời gian và ít hoặc không quan tâm đến vấn đề nguồn lực do đó kết 
quả hoạch định không có nhiều ý nghĩa thực tiễn. Với phương pháp đề xuất này, 
mong muốn sẽ có thêm một công cụ lựa chọn cho các nhà quản lý dự án trong việc 
hoạch định thời gian cho các dự án loại này. 
Bên cạnh đó, nếu việc hoạch định tiến độ chỉ đơn giản xem xét những yếu tố 
như giới hạn thời gian dự án, tính liên tục tổ đội, tính có sẵn của tổ đội hay những 
ràng buộc về mặt kỹ thuật thì chưa đủ để phản ánh đúng tình trạng dự án trong 
tương lai. Bởi vì, trong bất cứ dự án xây dựng nào yếu tố rủi ro bao giờ cũng đóng 
một phần quan trọng tác động ảnh hưởng đến thời gian hoàn thành dự án. Do đó, 
xem xét kết hợp rủi ro vào việc hoạch định tiến độ là công việc cần làm đối với bất 
cứ nhà quản lý dự án nào. Mặc dù vậy, việc kết hợp rủi ro vào việc hoạch định tiến 
độ là công việc khó khăn và phức tạp đòi hỏi một công cụ hay biện pháp thích hợp 
để có thể mô phỏng những rủi ro đó, xử lý các dữ liệu đầu vào và có khả năng diễn 
dịch kết quả đầu ra. Đặc biệt, mô hình đề xuất phải dễ sử dụng và thân thiện. 
Với MHĐX, người quản lý dự án sẽ có một phương pháp mới trong việc kết hợp 
yếu tố rủi ro vào trong việc hoạch định dự án, nó giúp cho người quản lý có thể 
hoạch định tốt hơn, lường trước những tình huống rủi ro có thể xảy ra trong tương 
lai tránh hay hạn chế nguy cơ kéo dài thời gian hoàn thành dự án cũng như có kế 
hoạch đáp ứng những rủi ro đó. 
Chương I Trang 7 
1.5 Phạm vi nghiên cứu: 
Như đã trình bày luận văn này sẽ tập trung nghiên cứu hoạch định cho các dự án 
xây dựng có công tác lặp lại. Một phương pháp mới sẽ được đề xuất trong việc 
hoạch định các dự án loại này. Nghiên cứu tập trung xem xét vấn đề nguồn lực tác 
động như thế nào đến kết quả hoạch định nhằm làm cho kết quả hoạch định sau 
cùng phản ánh đúng hơn so với thực tế. 
Bên cạnh sẽ được tiến hành nghiên cứu rủi ro trong các dự án có tính chất lặp lại 
dạng tuyến tính (trường hợp nghiên cứu đề xuất cho các công trình xây dựng tuyến 
đường cao tốc) trên cơ sở mô hình hoá những tác động của các yếu tô rủi ro kết hợp 
với sự hỗ trở của bảng tính Excel, phần mềm Crystal ball và thuật toán hay mô hình 
hoạch định đã đề xuất. Sau đó, đề tài sẽ giới thiệu một ví dụ áp dụng tiêu biểu và 
cách áp dụng MHĐX trong dự án cụ thể nhằm giúp cho những người quan tâm có 
thể dễ dàng áp dụng cho các dự án tương tự. 
Tóm lại, các giai đoạn chính trong quá trình nghiên cứu rủi ro được thể hiện theo 
sơ đồ sau: 
Hình 1.3 Các bước nghiên cứu rủi ro 
Xác định các nhân tố rủi ro có thể tác động đến công 
tác hoạch định tiến độ 
Phân loại rủi ro, đánh giá từng loại công tác dưới sự 
ảnh hưởng của rủi ro 
Nghiên cứu đề xuất công thức tính toán thời gian của 
các công tác khi kể đến nhân tố rủi ro 
Phân tích độ nhạy của các nhân tố rủi ro 
Phân tích so sánh với các phương pháp truyền thống 
Ứng dụng MHĐX vào trong dự án cụ thể 
Chương I Trang 8 
1.6 Tóm tắt chƣơng 1: 
 Như vậy, qua sơ lược chương 1 đã trình bày lý do hình thành đề tài này cũng 
như phạm vi nghiên cứu chính của luận văn. Mục đích của luận văn tập trung phát 
triển mô hình hay thuật toán giúp cho việc hoạch định các dự án có công tác lặp lại 
được thuận lợi và mang tính thực tiễn hơn. Bên cạnh đó với sự phát triển của ngành 
xây dựng, những dự án có quy mô lớn và tính phức tạp ngày càng nhiều đi cùng với 
nó là rủi ro cho việc hoàn thành dự án đúng như hoạch định ban đầu đề ra là công 
việc khó khăn cho bất cứ nhà quản lý dự án nào. Tuy nhiên, việc áp dụng rủi ro vào 
trong quá trình hoạch định là công việc không hề đơn giản, đã có nhiều nghiên cứu 
khác nhau nhằm kết hợp rủi ro vào trong quá trình hoạch định nhưng các nghiên 
cứu trước đây thường gây khó khăn trong quá trình thu thập dữ liệu đầu vào, thiếu 
dữ liệu trong quá khứ, việc xử lý dữ liệu và nhất là ứng dụng mô hình hay thuật 
toán đó vào thực tế là công việc vô cùng khó khăn. Nghiên cứu này nhằm đưa ra 
một mô hình đơn giản hơn nhằm giúp những nhà quản lý có thể ứng dụng kết hợp 
rủi ro vào trong quá trình hoạch định tiến độ. 
Chương II Trang 9 
CHƢƠNG II 
TỔNG QUAN 
Chương II Trang 10 
CHƢƠNG II 
TỔNG QUAN 
2.1 Giới thiệu: 
Trong lĩnh vực xây dựng, những dự án được chia ra thành những đơn vị tuần tự 
liên quan đến những công tác lặp lại như nhau thường yêu cầu một nguồn lực lớn 
được sử dụng theo cách thức tuần tự và do đó việc quản lý nguồn lực hiệu quả rất 
quan trọng trong việc cực tiểu hóa tổng chi phí thực hiện dự án và về sau nó ảnh 
hưởng trực tiếp chi phí dự án và cũng như gián tiếp bởi việc đáp ứng chi phí tài 
chính yêu cầu và những ngày đáp ứng trung gian. Những dự án loại này thường 
được xem xét rủi ro cao, bởi vì những nguyên do thuộc về bản chất tự nhiên không 
nhận biết trước được, sự dính líu tiềm tàng liên quan đến những tranh cãi về luật, 
điều kiện thời tiết không dự báo được. Những nhân tố này có thể gây ra trì hoãn 
tổng thể thời gian hoàn thành dự án và vượt chi phí, do đó quản lý nguồn lực và các 
mốc thời gian đáp ứng từng phần trở thành vấn đề thật sự quan trọng. 
Đã từ lâu CPM được sử dụng phổ biến nhất cho việc lên kế hoạch hoạch 
định và kiểm tra những dự án như vậy. Từ khi được phát triển bởi Dupont, Inc., 
trong những năm 50 của thế kỷ 20, CPM là công cụ quản lý hoạch định tiêu chuẩn 
và phổ biến trong những dự án xây dựng. Những giới thiệu rõ ràng và đầy đủ về 
CPM có thể được tìm thấy trong nhiều nguồn khác nhau (Meredith và Mantel 1995 
[1]; Oberlender 2000 [2]). Trong một CPM điển hình, tổng thời gian của một dự án 
đang tiếp diễn được xác định dựa vào giả thuyết những công tác tương lai sẽ tiến 
triển như hoạch định bất kể kết quả hoàn thành trong quá khứ. Ví dụ tại thời điểm 
dự đoán, ngày hoàn thành thật sự của công tác đã kết thúc và phần trăm hoàn thành 
của công tác đang tiếp diễn được cập nhật vào trong sơ đồ mạng cập nhật. Sau đó, 
ngày bắt đầu và kết thúc của những công tác còn lại được tính toán một cách xác 
định tương ứng với mối quan hệ phụ thuộc và thời gian ước đoán nguyên gốc của 
từng công tác. Những thiếu sót này đã được phê phán từ những năm 60 (Cottrell 
1999 [3]; Lu và AbouRizk 2000 [4]). 
Chương II Trang 11 
Những dự án nhiều đơn vị có thể được hoạch định sử dụng kỹ thuật CPM đã 
được chấp thuận phổ biến nhưng việc sử dụng liên tục nguồn lực xuyên qua những 
đơn vị (units) lặp lại không thể được đảm bảo khi sơ đồ mạng CPM này được sử 
dụng. Những thiếu sót này được minh họa bằng một ví dụ sau đây. 
Hình 2.1 là một sơ đồ mạng CPM được chuẩn bị cho một dự án bao gồm 3 
đơn vị lặp lại. Đường liền nét liên kết những công tác trong mỗi đơn vị và liên kết 
những công tác tương tự nhau từ đơn vị này đến đơn vị kia thể hiện ràng buộc mối 
quan hệ kỹ thuật trong sơ đồ mạng. Ví dụ, công tác B1, C1 và A2 không thể bắt đầu 
cho đến khi công tác A1 kết thúc. Đường đứt nét liên kết công tác tương tự nhau từ 
đơn vị này đến đơn vị kia thể hiện ràng buộc tính có sẵn của nguồn lực. Ví dụ, công 
tác A2 không thế bắt đầu cho đến khi tổ đội mộc từ công tác A1 đã sẵn sàng. 
Chú ý rằng đơn vị 1 và 3 có 5 công tác (A, B, C, D và E) nhưng đơn vị 2 
không có công tác B. Đơn vị 2 cũng khác biệt đó là thời gian của từng công tác 
riêng biệt không giống như trong đơn vị 1 và 3. Những khác biệt này phản ánh 
những khối lượng công việc khác nhau cần thiết để hoàn thành những công tác này 
trong các đơn vị. Những khối lượng khác biệt này có thể do tính chủ quan người 
quản lý dự án chia ra các đơn vị hay do đặc thù của tính kỹ thuật (Ví dụ: các đơn vị 
của các nhà cao tầng thường được chia mỗi đơn vị là một tầng nhà). 
Giải pháp trong hình 2.1 dẫn đến kết quả thời gian dự án là 18 ngày và 
đường găng bao gồm công tác A1, C1, C2, D3 và E3. Một cách điển hình, mỗi đơn 
vị trong một sơ đồ mạng lặp lại chứa những công tác có thời gian như nhau và 
đường găng trãi qua suốt sơ đồ mạng công tác trong đơn vị đầu tiên cho đến khi một 
công tác với thời gian dài nhất được tìm thấy. Kế đến, đường này trãi qua những 
công tác tương tự nhau trong đơn vị kế tiếp cho đến khi đơn vị sau cùng trong trình 
tự được đến và tiếp tục xuyên qua sơ đồ mạng đơn vị sau cùng cho đến khi công tác 
sau cùng kết thúc. Nếu ba đơn vị trong hình 2.1 giống nhau, đường công tác bao 
gồm công tác A1, C1, C2, C3, D3 và E3. Sự thay đổi trong đường này bao gồm 
công tác D2 và không có C3 như mong muốn bị gây ra bởi vì sự khác biệt những 
công tác trong đơn vị 2. 
Những mối liên kết trong sơ đồ mạng CPM đảm bảo cả hai ràng buộc mối 
quan hệ phụ thuộc kỹ thuật và yêu cầu có sẵn của nguồn lực được đáp ứng. Tuy 
Chương II Trang 12 
nhiên, ràng buộc liên tục của nguồn lực không thể tượng trưng trực tiếp trong sơ đồ 
mạng CPM vì thế việc sử dụng không bị gián đoạn của nguồn lực từ đơn vị này đến 
đơn vị kia không thể được đảm bảo. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì bản thân phương 
pháp CPM hoạch định được ràng buộc bởi thời gian và ít hoặc không quan tâm đến 
nguồn lực. Hoạch định thể hiện trong hình 2.1 cung cấp việc sử dụng liên tục của 
nguồn lực cho công tác C. Công tác C1 bắt đầu vào ngày thứ 3 và kết thúc vào ngày 
thứ 7, công tác C2 bắt đầu vào ngày thứ 7 và kết thúc vào ngày thứ 10, công tác C3 
bắt đầu ngày 10 và kết thúc vào ngày 14 vì vậy việc sử dụng nguồn lực không bị 
gián đoạn từ ngày 3 đến ngày 14. (chú ý rằng việc sử dụng nguồn lực liên tục hoặc 
là không được yêu cầu hoặc không thể ước đoán). 
Đối với công tác D, thời gian hoạch định không cung cấp việc sử dụng 
nguồn lực liên tục. Công tác D1 được hoạch định kết thúc vào ngày thứ 9 nhưng bắt 
đầu công tác D2 không được hoạch định để bắt đầu cho đến khi một ngày trễ hơn 
(vào ngày 10). Do đó, có khoảng trống 1 ngày trong việc sử dụng nguồn lực cần 
thiết cho công tác D. Tương tự, tính liên tục của nguồn lực được cung cấp bởi hoạch 
định của công tác A, nhưng không đạt được cho công tác B và E. 
Khi việc sử dụng không liên tục của nguồn lực cần thiết, những công tác có 
gián đoạn trong tính liên tục của nguồn lực có thể được hoạch định lại bằng cách sử 
dụng thời gian dự trữ của chúng. Ví dụ, thời gian dự trữ tổng cộng một ngày của 
công tác D1 được sử dụng và D1 có thể hoạch định lại để bắt đầu vào ngày thứ 8 và 
kết thúc vào ngày thứ 10. Trong những dự án lớn với những công tác lặp lại, việc 
phân tích từng công tác đã hoàn thành và sửa chữa hay hiệu chỉnh sơ đồ mạng CPM 
được yêu cầu để đảm bảo tính liên tục của nguồn lực, một quá trình như thế là cồng 
kềnh và đầy khả năng lỗi có thể xảy ra. 
Có thể kết luận từ hình 2.1 rằng sơ đồ mạng CPM cho những dự án với 
những đơn vị lặp lại có dáng vẻ bậc thang với mỗi bậc là một sơ đồ mạng phụ bao 
gồm những công tác và mối quan hệ phụ thuộc cho một đơn vị. Bởi vì đồ thị CPM 
thể hiện tất cả những mối liên kết giữa những công tác tương tự nhau trong những 
đơn vị liên tiếp và số lượng của liên kết, như thế số nút sẽ lớn và sơ đồ mạng sẽ 
xuất hiện nhiều phức tạp không cần thiết. 
Chương II Trang 13 
A1
3
B1
1
C1
4
D1
2
E1
1
A2
2
C2
3
D2
5
E2
1
A3
3
B3
1
C3
4
D3
2
E3
1
0 3
3 4
3 7
7 9 9 10
3 5
7 10
10 15 15 16
5 8
8 9
10 14
15 17 17 18
0
0
0
3
0
UNIT 1
UNIT 2
UNIT 3
TF=4
TF=2
TF=0
TF=0 TF=1
TF=0
TF=0
TF=1 TF=6
TF=6
TF=3
TF=1
TF=0 TF=0
0
0
2
2
0
5
0
1
6
51
4
0
100
0
ACT
Dur
ESD EFD
Total
Float
LEGEND
Hình 2.1 Sơ đồ mạng CPM có 3 công tác lặp lại 
Như đã nói ở trên, kỹ thuật phân tích sơ đồ mạng (CPM, PERT) định hướng thời 
gian không đủ khả năng chú tâm vào những vấn đề quản lý nguồn lực. Những kỹ 
thuậ