Trong nghiên cứu này, mô hình RAMS được sửdụng đểmô phỏng sựphát triển của
hoàn lưu khí quyển qui mô lớn thời kì bùng nổgió mùa mùa hè khu vực Nam Bộnăm 1998 nhằm
xác định những đặc trưng cơbản và cơchếhoạt động của bùng nổgió mùa. Kết quảnghiên cứu
cho thấy sựbùng nổgió mùa mùa hè khu vực Nam Bộgắn liền với sự đảo ngược của gradient
kinh hướng của nhiệt độtại các mực trên cao và sựthay đổi cấu trúc của áp cao cận nhiệt Tây Thái
Bình Dương. Trước thời điểm bùng nổkhoảng 3 ngày là sựxuất hiện của xoáy kép trên khu vực
Sri Lanka ởphía nam vịnh Bengal và sựdi chuyển lên phía bắc của dải áp thấp xích đạo. Những
hình thếnày gây ra sựthay đổi đột ngột của profile các biến khí quyển, tạo điều kiện cho sựbùng
phát đối lưu trên toàn khu vực.
9 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoàn lưu qui mô lớn thời kỳ bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực Nam Bộ năm 1998, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478
470
_______
Hoàn lưu qui mô lớn thời kỳ bùng nổ gió mùa mùa hè
trên khu vực Nam Bộ năm 1998
Bùi Minh Tuân, Nguyễn Minh Trường*
Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN,
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 11 tháng 8 năm 2010
Tóm tắt. Trong nghiên cứu này, mô hình RAMS được sử dụng để mô phỏng sự phát triển của
hoàn lưu khí quyển qui mô lớn thời kì bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực Nam Bộ năm 1998 nhằm
xác định những đặc trưng cơ bản và cơ chế hoạt động của bùng nổ gió mùa. Kết quả nghiên cứu
cho thấy sự bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực Nam Bộ gắn liền với sự đảo ngược của gradient
kinh hướng của nhiệt độ tại các mực trên cao và sự thay đổi cấu trúc của áp cao cận nhiệt Tây Thái
Bình Dương. Trước thời điểm bùng nổ khoảng 3 ngày là sự xuất hiện của xoáy kép trên khu vực
Sri Lanka ở phía nam vịnh Bengal và sự di chuyển lên phía bắc của dải áp thấp xích đạo. Những
hình thế này gây ra sự thay đổi đột ngột của profile các biến khí quyển, tạo điều kiện cho sự bùng
phát đối lưu trên toàn khu vực.
Từ khóa: Hoàn lưu khí quyển qui mô lớn, bùng nổ gió mùa, gradient kinh hướng của nhiệt độ.
1. Mở đầu∗
Bùng nổ gió mùa liên quan chặt chẽ đến sự
thay thế đột ngột mùa khô bởi mùa mưa trong
chu kì hàng năm và sự biến đổi của nó là
nguyên nhân chính dẫn đến những thảm họa
thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán trên một phạm
vi rộng lớn. Do đó, dự báo chính xác thời điểm
bùng nổ và chu kì hoạt động của gió mùa có vai
trò cực kì quan trọng đối với các hoạt động kinh
tế, xã hội, quản lí tài nguyên nước và phòng
chống thiên tai, đặc biệt với một quốc gia nông
nghiệp như Việt Nam.
Trong khi gió mùa mùa hè Ấn Độ và gió
mùa mùa hè Đông Á là những gió mùa điển
hình, đã được nghiên cứu nhiều trên thế giới,
Việt Nam (bán đảo Đông Dương) là khu vực
chuyển tiếp, giao tranh của các đới gió mùa lại
chưa được nghiên cứu nhiều. Và cũng vì là khu
vực chuyển tiếp nên thời tiết nơi đây diễn biến
rất phức tạp làm cho Việt Nam thường xuyên
phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề về nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản, cháy rừng, xâm
nhập mặn, giao thông đường thủy và hàng
không… Do đó, nghiên cứu gió mùa ở Việt
Nam đang đặt ra là một nhu cầu thực tiễn cấp
thiết, có vai trò quan trọng nhiều mặt.
∗ Tác giả liên hệ. ĐT: 84-4-38584943.
E-mail: truongnm@vnu.edu.vn
Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy sự
đảo ngược dễ nhận thấy trong chu kì mùa của
trường gió và sự luân phiên đột ngột của mùa
mưa và mùa khô trong chu kì năm của gió mùa
châu Á gắn liền với sự đảo ngược trong đốt
nóng khí quyển và những đặc trưng ổn định của
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 471
hoàn lưu qui mô lớn. Một trong những nghiên
cứu quan trọng được kể đến đó là lí thuyết về
sự thay đổi độ nghiêng của bề mặt sống áp cao
cận nhiệt do Mao và Chan (2004) [1]. Theo đó,
sống áp cao cận nhiệt tại một mực là đường có
độ cao địa thế vị đạt cực đại theo kinh hướng tại
mực đó. Dựa vào công thức gió địa chuyển, xác
định được đường sống cao áp này chính là
đường có tốc độ gió vĩ hướng bằng không. Khi
kết nối sống của đường đẳng áp tại các mực sẽ
tạo thành đường biên gió đông (phía nam) và
gió tây (phía bắc) từ mặt đất lên trên cao. Bề
mặt sống áp cao này được viết tắt là WEB
(Westerly Easterly Boundary). Trong nghiên
cứu của mình, Mao và Chan (2004) chỉ ra rằng
sự ấm lên theo mùa trong suốt cuối mùa xuân
và đầu mùa hè dẫn đến sự đảo ngược của
gradient nhiệt độ các mực trên cao phía nam
30oN. Dưới tác động này, bề mặt sống áp cao
cận nhiệt thay đổi dần độ nghiêng, WEB có xu
hướng nghiêng về phía có nhiệt độ ấm hơn,
nghĩa là mùa đông WEB nghiêng về phía nam
còn mùa hè WEB nghiêng về phía bắc. Khi
WEB trở lên thẳng đứng với bề mặt trái đất chỉ
ra sự thế chỗ của gió mùa mùa đông bởi gió
mùa mùa hè, do đó có thể sử dụng WEB như
một chỉ số chỉ ra sự bùng nổ gió mùa mùa hè
cho khu vực Việt Nam.
Bên cạnh yếu tố về đốt nóng bề mặt, những
yếu tố khác tác động tới sự bùng nổ và biến đổi
của gió mùa được Webster (2000) chỉ ra, bao
gồm [2]:
- Vai trò tương phản đất – biển: Đất và biển
có sự khác nhau về nhiệt dung, nước có thể tích
trữ một lượng nhiệt lớn vì nó là chất lỏng và có
thể truyền nhiệt xuống phía dưới nhờ quá trình
xáo trộn rối, sau đó lượng nhiệt sẽ được vận
chuyển lên trên trong tương lai.
- Vai trò sự quay trái đất: Tạo xoáy và tăng
cường gió. Dòng vượt xích đạo thay vì có
phương bắc nam khi lực Coriolis bằng không sẽ
có dạng đường cong khi lực Coriolis khác không.
- Vai trò của độ ẩm: Hơi nước bốc lên từ
đại dương, ngưng kết và gây mưa ở vùng ven
biển và trong lục địa, giải phóng lượng ẩn nhiệt
lớn. Ẩn nhiệt làm thay đổi gradient nhiệt độ
thẳng đứng dẫn đến sự gia tăng chênh lệch
gradient khí áp theo chiều ngang. Gradient khí
áp tăng đồng nghĩa với tăng gió mực thấp, do
đó tăng lượng ẩm cung cấp cho đối lưu – một
lần nữa tăng lượng ẩn nhiệt giải phóng. Đây là
quá trình hồi tiếp cực kì quan trọng của cơ chế
nhiệt động lực học gió mùa.
- Vai trò của lục địa - địa hình: Lục địa –
địa hình có vai trò như là nguồn nhiệt lớn, tăng
cường và định hướng trường gió. Hai khu vực
có địa hình cao của dãy núi Đông Phi và
Himalaya giống như hai bức tường khổng lồ
chặn các dòng vĩ hướng, tập trung chúng thành
dòng xiết mực thấp với tốc độ gió lên tới 25 m s-1.
- Tác động của ENSO: ENSO vẫn được coi
là nguyên nhân chính cho sự thay đổi hàng năm
của gió mùa. Trong mối liên hệ với sự hoạt
động của áp cao cận nhiệt Tây Thái Bình
Dương, ENSO gây ra sự biến đổi về cường độ
gió cũng như lượng mưa trên toàn khu vực gió
mùa.
Mục 2 tiếp theo sẽ mô tả số liệu sử dụng và
cấu hình thực nghiệm để có thể nhận được các
kết quả phân tích bùng nổ gió mùa mùa hè năm
1998 sử dụng mô hình RAMS được đưa ra
trong Mục 3. Cuối cùng là phần kết luận.
2. Số liệu và cấu hình thực nghiệm
Trong nghiên cứu này, mô hình RAMS
được sử dụng để mô phỏng hoàn lưu khí quyển
thời kì bùng nổ gió mùa năm 1998 từ ngày
9/5/1998 đến ngày 19/5/1998. Tâm miền tính
đặt tại 35oN - 108oE, sử dụng phép chiếu cực.
Cấu hình miền tính bao gồm 207 bước lưới theo
phương vĩ tuyến, 161 bước lưới theo phương
kinh tuyến và 30 mực theo phương thẳng đứng.
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 472
Khoảng cách giữa các điểm lưới phương ngang
là 45 km. Lớp dưới cùng dày 100 m, độ dày các
lớp tiếp theo bằng độ dày lớp ngay sát bên dưới
nhân với 1,15. Khi độ dày lớp thẳng đứng đạt
1200 m, các lớp tiếp theo đó sẽ được gán bằng
1200 m. Bước thời gian tích phân là 30 s, các sơ
đồ tham số hóa đối lưu và sơ đồ bức xạ được
kích hoạt 5 phút một lần.
Mô hình được ban đầu hóa sử dụng số liệu
tái phân tích NCEP - NCAR năm 1998 của
NOAA (National Oceanic and Atmospheric
Administration). Bộ số liệu này bao gồm nhiệt
độ khí quyển, độ ẩm tương đối, độ cao địa thế
vị, trường gió kinh hướng và gió vĩ hướng. Các
trường được cho trên 17 mặt đẳng áp với độ
phân giải ngang 2,5 x 2,5o. Các điều kiện biên
trong quá trình tích phân được cập nhật 6 h một
lần cũng sử dụng các trường tái phân tích này.
Nhiệt độ mặt nước biển sử dụng cho ban đầu
hóa mô hình là nhiệt độ mặt biển trung bình
tuần với độ phân giải 1 x 1o. Ô lưới đầu tiên có
tâm tại 0,5oE - 89,5oS và ô lưới cuối cùng có
tâm là 359,5oE - 89,5o N.
3. Kết quả và thảo luận
Năm 1998 nằm trong pha ENSO mạnh nhất
của thế kỉ XX. Với những đặc trưng hoàn lưu
chung của năm El Niño, do vậy sự bùng nổ gió
mùa mùa hè 1998 chậm hơn các năm khác đồng
thời tốc độ gió bề mặt cũng nhỏ hơn. Áp cao
cận nhiệt tăng cường và lấn sâu xuống phía nam
khiến dải áp thấp xích đạo di chuyển khá yếu
lên phía bắc. Sau đây là những kết quả phân
tích cho sự bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực
Nam Bộ tháng 5 năm 1998.
3.1.Phân bố lượng mưa thời điểm bùng nổ
gió mùa
Hình 1 biểu diễn phân bố lượng mưa mô
phỏng bởi mô hình RAMS cho khu vực Nam Á
và Đông Á thời điểm bùng nổ gió mùa tháng 5
năm 1998. Trước ngày 15/5, bán đảo Đông
Dương không có mưa, lượng mưa chủ yếu tập
trung tại hai khu vực, một tại front Meiyu –
Baiu với một dải mưa lớn kéo dài từ trung tâm
Trung Quốc tới Nhật Bản và một dải mưa lớn
khác dải tại xích đạo với vị trí trung bình ở
khoảng 5oN. Áp thấp phía nam vịnh Bengal
phát triển mạnh cũng gây mưa lớn ở khu vực
này (Hình 1a, b). Đến ngày 16/5, cùng với sự
xuất hiện của gió tây nam, mưa đã xuất hiện tại
Nam Bộ, lượng mưa đạt trên 5 mm ngày-1 và
kéo dài trong nhiều ngày tiếp theo (Hình 1c, d).
Cần nhấn mạnh rằng cấu hình lưới trong nghiên
cứu này là thô vì mục tiêu nghiên cứu không
phải là dự báo chính xác lượng mưa vào thời
điểm bùng nổ.
3.2. Đặc điểm hoàn lưu quy mô lớn thời kì bùng
nổ gió mùa
a) Đặc điểm hoàn lưu mực thấp
Trước ngày 14/5 áp cao cận nhiệt Tây Bắc
Thái Bình Dương khống chế toàn bộ khu vực
Việt Nam, gió yếu trên vịnh Bengal, gió mùa
hoàn toàn chưa có dấu hiệu bùng nổ (Hình 2a).
Sau đó, quá trình bùng nổ gió mùa mùa hè khu
vực Nam Bộ bắt đầu với sự di chuyển lên phía
bắc của dải áp thấp xích đạo, trong đó hoàn lưu
mực thấp cho thấy khu vực gần Sri Lanka phát
triển một áp thấp xuất hiện đồng thời với một
khu áp thấp khác ở phía nam xích đạo (trong
hình không chỉ ra), do đó hình thành cặp xoáy
kép (Hình 2b). Ở giữa hai xoáy thuận này, gió
tây đến tây nam mực thấp phát triển trên khu
vực xích đạo biển Ấn Độ Dương, nhưng tác
động của nó chưa tới được bán đảo Đông
Dương nơi vẫn bị ảnh hưởng của áp cao cận
nhiệt Tây Bắc Thái Bình Dương, mặc dù áp cao
này đã di chuyển lên phía bắc và rút ra phía
đông (Hình 2c). Sau ngày 16/5 gió tây nam xích
đạo được tăng cường này đã tới được phía tây
áp cao cận nhiệt, ảnh hưởng trực tiếp đến khu
vực bán đảo Đông Dương và phía bắc Biển
Đông (Hình 2d).
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 473
Hình 1. Phân bố lượng mưa tích lũy thời kỳ bùng nổ gió mùa năm 1998 sử dụng mô hình RAMS. Thang chia
không tuyến tính với khoảng chia lần lượt là 3 mm ngày-1, 5 mm ngày-1, 15 mm ngày-1,
và 40 mm ngày-1.
Có thể nhận thấy rằng sự di chuyển sang
phía đông của gió mùa nhiệt đới xảy ra đồng
thời với sự rút lui sang phía đông của áp cao
cận nhiệt Tây Thái Bình Dương ra khỏi Biển
Đông. Sau hai ngày, từ ngày 12/5 tới 14/5, vị trí
thấp nhất của sống áp cao cận nhiệt (điểm A) di
chuyển lên phía bắc năm vĩ độ, từ 10oN tới
15oN. Hai ngày sau đó, tới ngày 16/5, nó tiếp
tục di chuyển lên phía bắc năm vĩ độ, từ 15oN
tới 20oN, và sang phía đông mười vĩ độ, từ
105oE tới 115oE. Vậy chỉ trong bốn ngày, điểm
A đã di chuyển mười vĩ độ cả lên phía bắc và
sang phía đông.
Theo định nghĩa sự bùng nổ gió mùa mùa
hè là sự thay thế của gió đông mực thấp bởi gió
tây nhiệt đới. Do đó từ ngày 14/5 đến 17/5 đánh
dấu sự bùng nổ gió mùa trên cả ba khu vực: đầu
tiên và vịnh Bengal, sau đó là bán đảo Đông
Dương và cuối cùng là bắc Biển Đông. Sự bùng
nổ gió mùa khu vực Biển Đông diễn ra sau đó
một số ngày. Nói cách khác, nếu lấy pentad
(năm ngày) là đơn vị thời gian, bùng nổ gió
mùa xảy ra đồng thời trên phạm vi rộng lớn kéo
dài từ vịnh Bengal tới Biển Đông trong năm
1998.
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 474
Hình 2. Vector gió mực 850 hPa lúc 12 UTC từ ngày 12/5 tới ngày 18/5 năm 1998. Đường đứt chỉ sống áp
cao cận nhiệt Tây Thái Bình Dương. Điểm A là vị trí thấp nhất của sống áp cao cận nhiệt.
b) Đặc điểm hoàn lưu mực trên cao
Hình 3. Vector gió mực 850 hPa lúc 12 UTC từ ngày 12/5 tới ngày 18/5 năm 1998.
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 475
Tương ứng với điều kiện hoàn lưu mực 850
hPa, sự phát triển theo thời gian của hoàn lưu
200 hPa cũng thể hiện sự thay đổi đáng kể
trước và sau thời điểm bùng nổ gió mùa. Ngày
12/5, dòng gió tây trải dài ở rìa phía nam cao
nguyên Tibet (dạng hình thế mùa đông) tạo ra
hoàn lưu dạng sống yếu trên cao ở khu vực Ấn
Độ Dương xích đạo (khoảng 10oN) và rãnh trên
cao ở khu vực Philippines (Hình 3a). Ngày
14/5, dòng gió tây này vẫn được duy trì (Hình
3b). Tuy nhiên, sang ngày 16/5 hoàn lưu dạng
sống phát triển lên trên vịnh Bengal và mở rộng
về phía đông đồng thời đẩy rãnh thấp ra khỏi
Biển Đông. Hoàn lưu trên cao có đặc trưng mùa
đông kết thúc, thiết lập hình thế mùa hè trên
khu vực Đông Dương (Hình 3c). Ngày tiếp
theo, cao áp Tibet phát triển thiết lập một rãnh
rất sâu trên khu vực Biển Đông Việt Nam (Hình
3d). Do đó, dựa vào hoàn lưu mực cao có thể
nhận định ngày 16/5 diễn ra sự chuyển tiếp từ
hình thế mùa đông sang hình thế mùa hè phía
trên cao khu vực Việt Nam, với một đặc trưng
hoàn lưu thời điểm bùng nổ gió mùa mùa hè là
sự hình thành gió tây nam nhiệt đới ở mực thấp
và sự hình thành gió tây bắc ở mực trên cao.
3.3 Thời điểm bùng nổ gió mùa dựa vào các chỉ
số gió mùa
a) Sự thay đổi cấu trúc áp cao cận nhiệt
thời kì bùng nổ gió mùa
Dưới sự đốt nóng theo mùa, WEB chuyển
dần từ hình thế mùa đông sang hình thế mùa hè.
Hình 4 cho thấy, nếu lấy 90oE là ranh giới phía
tây và 115oE là ranh giới phía đông, thời điểm
trước bùng nổ gió mùa khu vực Nam Bộ được
đánh dấu bởi sự thay đổi hình thế giữa hai kinh
độ này. Từ 90oE sang phía tây và 115oE sang
phía đông, WEB vẫn giữ nguyên độ nghiêng về
phía nam chỉ ra hình thế của mùa đông, do đó
tín hiệu chuyển mùa đầu tiên được khẳng định
tại phía đông vịnh Bengal và bán đảo Đông
Dương (Hình 4a, b).
Hình 4. Sự phát triển của WEB thời kỳ bùng nổ gió mùa với các mực 850 hPa (đường liền),
700 hPa (đường đứt), 500 hPa (đường chấm).
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 476
Những ngày sau đó, WEB tiếp tục thay đổi
hình thế, với sự mở rộng của độ nghiêng sang
phía đông tới 120oE (Hình 4c) và 125oE (Hình
4d) chỉ ra sự bùng nổ gió mùa trên Biển Đông.
Tại vịnh Bengal sống áp cao 850 hPa đứt gãy
(ngày 16/5), sau đó là sự đứt gãy kéo theo của
sống áp cao 700 hPa (ngày 18/5) và 500 hPa
(ngày 19/5). Tuy nhiên từ 90oE sang phía tây,
hình thế của WEB vẫn không thay đổi. Nó chỉ
thực sự thay đổi sau đó hai tuần với sự di
chuyển lên phía bắc của dải áp thấp xích đạo
(trong hình không chỉ ra). Do đó nếu coi WEB
là chỉ thị bùng nổ gió mùa, quá trình chuyển
mùa mở rộng từ vịnh Bengal sang phía đông,
dừng lại ở 125oE, sau đó mở rộng sang phía tây
(tương tự nghiên cứu của Mao và Chan 2004
[1]).
b) Chỉ số gió tây mực thấp vịnh Bengal
Mưa mang tính địa phương và chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố như nhiễu động nhiệt
đới, địa hình, gió đất biển …, do đó nếu chỉ dựa
vào sự thay đổi của lượng mưa có thể sẽ không
xác định chính xác thời điểm bùng nổ gió mùa.
Một chỉ số đơn giản nhưng hiệu quả có thể
được đề xuất là UBengal, giá trị của gió trung
bình mực 850 hPa trên vịnh Bengal (5oN - 10oN
và 90oE - 100oE), được dùng để dự báo khách
quan sự bùng nổ gió mùa trên bán đảo Đông
Dương. Chỉ số này không những mô tả sự thành
lập đột ngột của gió mùa tây nam nhiệt đới tại
Bengal mà còn mô tả cả sự bột phát của mùa
mưa tại trung tâm bán đảo Đông Dương và
Biển Đông. Lí do chọn UBengal làm chỉ số bùng
nổ gió mùa, bên cạnh nguyên nhân về số liệu
(do thiếu các trạm đo mưa ngoài biển), một
nguyên nhân chính đó là UBengal phản ánh được
đặc trưng biến đổi qui mô lớn của gió mùa.
Khía cạnh quan trọng nhất của bùng nổ gió
mùa bán đảo Đông Dương là sự thành lập của
gió tây ổn định, đồng thời được kết hợp với sự
chấm dứt của gió đông. Vì vậy, ngày bùng nổ
gió mùa mùa hè khu vực Việt Nam được dự báo
xảy sau thời điểm chỉ số UBengal thỏa mãn các
tiêu chí sau:
- Trong pentad bùng nổ UBengal có giá trị lớn
hơn không.
- Trong bốn pentad tiếp theo, bao gồm cả
pentad bùng nổ, UBengal phải dương trong ít nhất
ba pentad và giá trị trung bình pentad UBengal có
giá trị lớn hơn 3 m s-1.
Hình 5. Sự phát triển của gió tây mực 850 hPa
(90oE - 95oE,5oN - 10oN) từ 9/5 đến 19/5 năm 1998.
Hình 5 biểu diễn sự phát triển của gió trung
bình vĩ hướng (90oE - 95oE, 5oN - 10oN) từ 9/5
đến 19/5/1998. Trước ngày 14/5, gió trung bình
mang dấu âm cho thấy gió đông thống trị trên
khu vực Bengal, sau ngày 14/5, gió trung bình
chuyển dấu chỉ ra sự thay thế gió đông bởi gió
tây trên khu vực này. Những ngày sau đó, tốc
độ gió liên tục tăng với cực đại vào ngày 17/5.
Do đó nếu lấy UBengal là chỉ số gió mùa, thời
điểm bùng nổ gió mùa khu vực bán đảo Đông
Dương sẽ xảy ra sau đó một vài ngày (tương tự
nghiên cứu của Wang và các ĐTG 2004 [3]).
c) Sự đảo ngược của gradient nhiệt độ
Đặc trưng của sự thay đổi trường nhiệt độ
mực trên cao thời điểm bùng nổ gió mùa là sự
đảo ngược gradient nhiệt độ kinh hướng. Sự ấm
lên theo mùa cuối mùa xuân đầu mùa hạ là
nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi đột ngột
của gradient nhiệt độ này.
B.M. Tuân, N.M. Trường / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ 26, Số 3S (2010) 470‐478 477
Dựa trên đồ thị Hình 6 có thể thấy, trước
ngày 13/5 nhiệt độ trung bình mực trên cao khu
vực (25oN - 30oN, 95oE - 110oE) nhỏ hơn 252
K. Đến ngày 15/5, nhiệt độ trung bình này tăng
đột ngột từ 251 tới 254 K (ngày 19/5). Trong
khi đó nhiệt độ trung bình mực trên cao khu
vực (10oN - 15oN, 95oE - 110oE) lại giảm từ
253,5 K (ngày 9/5) xuống 252,5 K (ngày 19/5).
Thời điểm đảo ngược của gradient nhiệt độ hai
khu vực này vào khoảng 17/5, khá gần với thời
điểm bùng nổ gió mùa dựa trên WEB và UBengal
(tương tự nghiên cứu của He và các ĐTG 2002
[4]).
Hình 6. Đồ thị biểu diễn sự đảo ngược gradient nhiệt
độ mực trên cao (trung bình 500 hPa – 200 hPa)
giữa (25oN - 30oN, 95oE - 110oE)
và (10oN- 15oN, 95oE - 110oE)
4. Kết luận
Bùng nổ gió mùa châu Á đánh dấu sự
chuyển mùa từ mùa đông sang mùa hè của hoàn
lưu khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Việt
Nam có vị trí nằm giữa ba hệ thống lớn là gió
mùa Ấn Độ, gió mùa Đông Á và gió mùa Tây
Bắc Thái Bình Dương, do đó gió mùa khu vực
Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi cả ba hệ thống
này. Nói cách khác, gió mùa khu vực Việt Nam
mang tính chất lai giữa gió mùa nhiệt đới và gió
mùa cận nhiệt đới.
Bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực Việt Nam
1998 được đặc trưng bởi những khía cạnh nổi
bật của thời tiết và khí hậu: bùng nổ muộn do
tác động của El Niño, lũ lụt mãnh liệt tại lưu
vực sông Yangtze (Trung Quốc) và số lượng rất
ít xoáy thuận nhiệt đới được hình thành (17
xoáy thuận nhiệt đới so với thông thường
khoảng 28). Dựa trên những kết quả mô phỏng
của mô hình RAMS, một số kết quả thu được
như sau:
1. Theo sự phát triển của WEB, phân bố
lượng mưa, gió tây mực thấp và đảo ngược của
gradient kinh hướng của nhiệt độ có thể kết
luận bùng nổ gió mùa xuất hiện đầu tiên tại
vịnh Bengal, sau đó là sự bùng nổ gần như
đồng thời của gió mùa trên khu vực Đông
Dương và bắc Biển Đông vào ngày 16/5/1998.
2. Bùng nổ gió mùa khu vực miền Nam
Việt Nam xảy ra sau khoảng 3 ngày so với sự
xuất hiện của xoáy kép Sri Lanka, xoáy kép này
có vai trò quan trọng trong việc tăng cường gió
tây mực thấp sang phía đông, cho thấy là một
chỉ thị có giá trị tham khảo trong dự báo bùng
nổ gió mùa.
3. Áp cao cận nhiệt Tây Bắc Thái Bình
Dương thống trị toàn bộ khu vực thời điểm
trước bùng nổ giúp duy trì nền nhiệt độ bề mặt
và độ ẩm khá cao trên lục địa và đại dương. Khi
áp cao cận nhiệt rút lui sang phía đông sẽ gây ra
bất ổn định làm bùng phát đối lưu toàn khu vực.
4. Dải áp thấp xích đạo di chuyển khá yếu
lên phía bắc do áp cao cận n