Hàng ngày có rất nhiều người theo dõi diễn biến các loại lãi suất khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vậy lãi suất là gì, tại sao người ta lại quan tâm nhiều đến nó. Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cần phải đi tìm hiểu bản chất của lãi suất, vai trò của nó đối với nền kinh tế. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải biết những nhân tố nào tác động tới nó để từ đó đưa ra được một chính sách lãi suất hiệu quả nhất phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế. Đây cũng chính là nội dung chủ yếu sẽ được đề cập trong chương này.
31 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1964 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách lãi suất của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHương I
Tìm hiểu nội dung, vai trò của lãi Suất và chính sách lãi suất Đối với nền kinh tế
Hàng ngày có rất nhiều người theo dõi diễn biến các loại lãi suất khác nhau trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vậy lãi suất là gì, tại sao người ta lại quan tâm nhiều đến nó. Để trả lời cho câu hỏi này chúng ta cần phải đi tìm hiểu bản chất của lãi suất, vai trò của nó đối với nền kinh tế. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải biết những nhân tố nào tác động tới nó để từ đó đưa ra được một chính sách lãi suất hiệu quả nhất phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế. Đây cũng chính là nội dung chủ yếu sẽ được đề cập trong chương này.
1. Những vấn đề cơ bản về lãi suất.
1.1. Lãi suất là gì
Trước hết để tìm hiểu lãi suất là gì chúng ta đi tìm hiểu bản chất của số tiền lãi.
Bắt đầu từ thời kỳ tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ quan hệ tín dụng đã ra đời. Bản thân nghĩa “tín dụng” có nghĩa là vay mượn. Khi người cho vay cho người đi vay vay một khoản tiền thì đến thời hạn người đi vay phải trả cho người cho vay một khoản tiền lãi. Khoản tiền này chính là giá của quyền sử dụng vốn mà người sử dụng vốn (người đi vay) phải trả cho người sở hữu vốn (người cho vay) khi anh ta tạm thời trao quyền sử dụng số vốn tạm thời nhàn rỗi của mình cho người khác. Như vậy, bản chất của lãi suất chính là một loại chi phí vốn đối với người đi vay và là một loại thu nhập vốn đối với người cho vay.
Để đơn giản và dễ so sánh các loại chí phí khác nhau người ta đưa ra một cách tính chi phí trung bình phải trả cho một khoản vay trong một thời hạn nhất định, đó chính là lãi suất. Vậy lãi suất chính là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên tổng giá trị khoản vay được tính trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
1.2. Phân loại lãi suất.
Trong nền kinh tế hiện đại, các quan hệ tín dụng ngày càng phát triển một cách rất phong phú và đa dạng. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu cũng như quản lý, người ta phân chia thành các nhóm lãi suất khác nhau dựa trên những tiêu chí nhất định. Sau đây là một số cách phân chia điển hình:
1.2.1. Căn cứ vào mối quan hệ với lạm phát
Theo căn cứ này thì có 2 loại lãi suất là lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
Lãi suất danh nghĩa (nominal interest rate): là mức lãi suất được công bố công khai ở các ngân hàng và trên các hợp đồng tín dụng.
Lãi suất thực (real interest rate): là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn về chi phí của việc vay tiền so với lãi suất danh nghĩa.
Mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa được biểu diễn thông qua phương trình Fisher sau:
ir=in-Pe
Trong đó:
ir: lãi suất thực
in: lãi suất danh nghĩa
Pe : tỷ lệ lạm phát dự tính
Với cách phân chia lãi suất như trên sẽ cho chúng ta thấy được chi phí thực của vốn dưới góc độ của người đi vay và thu nhập thực của vốn dưới góc độ của người cho vay trong từng chu kỳ kinh tế có lạm phát hay thiểu phát.
1.2.2. Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Có 3 loại lãi suất chính đó là lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất chiết khấu.
Lãi suất cho vay (offered rate): là lãi suất mà người đi vay vốn của các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào đó để trả lãi cho các tổ chức tín dụng.
Lãi suất tiền gửi (bid rate): là lãi suất mà các tổ chức tín dụng khi đi vay vốn của khách hàng phải căn cứ vào đó để trả lãi.
Chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi phải đảm bảo chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng và đảm bảo có lãi. Do đó:
Lãi suất cho vay= lãi suất tiền gửi + tỉ lệ chi phí hợp lí + tỉ lệ thuế+ tỉ lệ lợi nhuận TCTD
Lãi suất chiết khấu là lãi suất mà các NHTM áp dụng đối với khách hàng khi chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Thông qua việc điều chỉnh mức lãi suất này có tác động tới lượng tiền cung ứng đối với nền kinh tế.
1.2.3. Căn cứ vào mức độ chỉ đạo đối với thị trường
Một số lãi suất được coi là lãi suất chỉ đạo thị trường bao gồm có các loại sau:
Thứ nhất là lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng nhà nước, thông qua đó ngân hàng nhà nước đóng vai trò như là người cho vay cuối cùng và qua đó tác động tới lượng tiền cung ứng cho hệ thống ngân hàng.
Thứ hai là lãi suất liên ngân hàng là lãi suất được hình thành trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Nó là mức lãi suất bình quân trên thị trường nên có vai trò như mức lãi suất cơ bản định hướng cho các NHTM.
Thứ ba là lãi suất thị trường mở (OMO- open market operate): là lãi suất được hình thành thông qua các nghiệp vụ trên thị trường. Lãi suất này có ảnh hưởng tới giá chứng khoán trên thị trường, do đó cũng tác động đến mức cung tiền dài hạn cho nền kinh tế.
1.24. Căn cứ vào phạm vi quốc gia và quốc tế
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới thì lãi suất của một nước cũng chịu tác động của sự biến động lãi suất trên thị trường quốc tế và ngược lại. Vì thế việc nghiên cứu lãi suất quốc gia và lãi suất quốc tế là việc cần thiết trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới để từ đó biết được những tác động tích cực và tiêu cực từ biến động của lãi suất quốc tế đến lãi suất trong nước, do đó sẽ đề ra được những giải pháp phòng tránh.
Lãi suất quốc gia là lãi suất được hình thành trên thị trường tín dụng trong nước và nó phản ánh tình hình hoạt động tín dụng trên phạm vi quốc gia.
Lãi suất quốc gia của Việt Nam được thể hiện thông qua chỉ số VIBOR
VIBOR (Viet nam interbank offered rate): là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng này được thực hiện trên cơ sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và cung cầu vốn trên thị trường. Do đó, lãi suất liên ngân hàng gắn với thị trường nhiều hơn và dễ biến động hơn.
Lãi suất quốc tế là lãi suất được hình thành trên thị trường tín dụng quốc tế và phản ánh tình hình tín dụng trên phạm vi quốc tế.
Trên thị trường tài chính quốc tế một số lãi suất được coi là có tác động mạnh đến thị trường tài chính của các nước là LIBOR, LIBID.
LIBOR (London interbank offered rate): là lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế ở London. Đây là lãi suất ngắn hạn 1,3,6 tháng hoặc 1 năm. Lãi suất này được tính bình quân từ lãi suất của các ngân hàng lớn ở London như Barclay Bank, National Westminster Bank , Chartered Bank, Trust Bank. LIBOR phản ánh điều kiện thị trường cho các quĩ và được các ngân hàng sử dụng rộng rãi làm cơ sở ấn định lãi suất tính trên các món vay bằng USD hoặc ngoại tệ với các khách hàng kinh doanh.
LIBID (London interbank bid rate): là lãi suất cho vay liên ngân hàng quốc tế ở London nhưng nó được tính bình quân dựa trên lãi suất của các năm của một số ngân hành. LIBID có ảnh hưởng đến giá chứng khoán trên các thị trường.
Trong nền kinh tế mở và đặc biệt khi thị trường tài chính hội nhập vào nền tài chính toàn cầu thì sự biến động của lãi suất quốc tế sẽ ảnh hưởng tới lãi suất quốc gia. Tuy nhiên, lãi suất quốc gia còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng đi tìm hiểu các nhân tố tác động tới lãi suất để từ đó biết được các công cụ quản lí lãi suất là gì.
1.3. Các nhân tố tác động tới lãi suất
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, vì thế cũng như giá của các hàng hoá khác lãi suất chủ yếu được xác định dựa trên quan hệ cung –cầu. Do đó, để đi tìm hiểu các nhân tố tác động tới lãi suất chúng ta cần tìm hiểu mối quan hệ giữa lãi suất với cung và cầu quĩ cho vay.
1.3.1. Mối quan hệ giữa lãi suất và cung cầu quĩ cho vay
*Mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quĩ cho vay
Cầu quĩ cho vay bao gồm nhiều thành phần và bắt nguồn từ tất cả các khu vực của nền kinh tế, trong đó mọi khu vực có nhu cầu về vốn thì xuất phát từ những động lực khác nhau. Có thể chia ra thành các nhóm sau:
-Nhu cầu của doanh nghiệp: bao gồm nhu cầu dài hạn và nhu cầu ngắn hạn *Nhu cầu dài hạn chủ yếu xuất phát từ nhu cầu đầu tư như mua sắm thiết bị máy móc
*Nhu cầu ngắn hạn thường xuất phát từ nhu cầu mua sắm hàng hoá hay các giao dịch hàng ngày.
-Nhu cầu của người dân (người tiêu dùng): xuất phát từ nhu cầu mua hàng tiêu dùng lâu bền như xe hơi, nhà cửa, các hàng xa xỉ khác. Đây là những hàng rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất, còn những mặt hàng thiết yếu thì hầu như không nhạy cảm với lãi suất.
-Nhu cầu của chính phủ: chủ yếu xuất phát từ việc xây dựng các chương trình giáo dục cộng đồng và những dịch vụ công quyền khác.
-Nhu cầu của người nước ngoài: bao gồm cả khách du lịch và những doanh nghiệp nước ngoài làm việc tại Việt Nam
Trong các yếu tố của cầu quĩ cho vay thì cầu của doanh nghiệp và của chính phủ là nguồn nhu cầu ròng chính nhưng cầu quĩ cho vay của chính phủ thì ít bị tác động bởi sự thay đổi của lãi suất hơn.
Mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quĩ cho vay được minh hoạ bằng đồ thị sau:
H1: Mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quỹ cho vay.
Lãi suất
i1
i2 D
Q1 Q2 Quỹ cho vay
Lãi suất và cầu quĩ cho vay có quan hệ ngược chiều nhau. ứng với mức lãi suất i1thì lượng cầu quĩ cho vay là Q1. Nếu lãi suất giảm xuống i2 nghĩa là chi phí vay tiền giảm xuống thì cầu quĩ cho vay sẽ tăng lên Q2. Như vậy, khi lượng cầu thay đổi do sự thay đổi của lãi suất chúng ta có một biến đổi dọc theo đường cầu. Nếu lượng cầu thay đổi do sự thay đổi của một số yếu tố khác ngoài lãi suất sẽ xuất hiện sự dịch chuyển đường cầu.
*Mối quan hệ với cung quĩ cho vay
Cung quĩ cho vay phản ánh khối lượng quĩ có thể cung cấp cho vay, bao gồm khối lượng vốn nhàn rỗi và số lượng tiền mới được tạo ra.
*Vốn nhàn rỗi bao gồm các khoản sau:
Tiết kiệm của các cá nhân, hộ gia đình: đây là thành phần cung cấp nguồn tiết kiệm chủ yếu, phụ thuộc vào thu nhập hiện có, dự tính trong tương lai, việc dự trù về của cải do cá nhân nắm giữ, mức lãi suất và tỉ lệ lạm phát …
Tiết kiệm của các doanh nghiệp: các doanh nghiệp cũng tập trung tiết kiệm chủ yếu bằng hình thức lợi nhuận tích luỹ, khấu hao, các khoản dư thừa trên tài khoản vãng lai.
Nguồn thặng dư của ngân sách nhà nước.
Dòng tiết kiệm từ nước ngoài: khi các thị trường tài chính trở nên toàn cầu hoá và nhu cầu vốn trong nước vượt quá cung trong nước thì các luồng chu chuyển từ nước ngoài vào trong nước trở nên rất quan trọng. Các chu chuyển tiền này thường đến từ những quốc gia có tỉ lệ tiết kiệm cao và lãi suất tương đối thấp.
*Số lượng mới được tạo ra: Một nguồn vốn mới được bổ sung vào quĩ cho vay chính là việc cung ứng tiền. Khối lượng tiền cung chịu tác động bởi khả năng tạo tiền của các NHTM và việc phát hành tiền mặt của ngân hàng trung ương.
Trong các yếu tố của cung quĩ cho vay thì tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình là nguồn cung cấp chủ yếu và nó rất nhạy cảm với sự thay đổi của lãi suất, tỉ lệ tiết kiệm của ngân sách hầu như không phụ thuộc vào sự thay đổi của lãi suất. Mối quan hệ giữa lãi suất và cung quĩ cho vay được minh hoạ bằng đồ thị sau:
H.2: Mối quan hệ giữa lãi suất và cầu quĩ cho vay
Lãi suất
S
i2
i1
Q1 Q2 Quỹ cho vay
Khi lãi suất tăng lên từ i2 đến i1 thì số lượng quĩ cho vay được cung ứng có chiều hướng tăng lên. Nghĩa là lượng cung và lãi suất có quan hệ thuận chiều, ứng với sự thay đổi của lãi suất là sự thay đổi của cung quĩ cho vay biến đổi dọc theo đường cung. Nhưng nếu lãi suất không đổi, đường biểu diễn cung quĩ cho vay sẽ dịch chuyển khi có một trong các nhân tố cơ bản của cung thay đổi.
* Xác định lãi suất cân bằng
Như chúng ta đã biết, cân bằng thị trường chỉ diễn ra khi số lượng mà dân chúng có ý định mua (lượng cầu) bằng số lượng mà dân chúng có ý định bán ở một mức giá xác định.
Trong thị trường tín dụng, điều này đạt được khi lượng cầu quĩ cho vay bằng lượng cung quĩ cho vay. Lãi suất tương ứng với điểm cân bằng cung –cầu quĩ cho vay gọi là lãi suất cân bằng.
H.3: Xác định lãi suất cân bằng
Lãi suất
D S
I O
Q
Quỹ cho vay
Trên đồ thị ta thấy cung và cầu vốn cân bằng tại điểm O ứng với mức lãi suất i1. Nếu lãi suất được xác định cao hơn lãi suất cân bằng i thì cung quĩ cho vay sẽ lớn hơn cầu quĩ cho vay do đó lãi suất sẽ giảm cho đến khi lãi suất đạt lãi suất cân bằng, tại đó loại bỏ dư cung. Tương tự khi lãi suất ở dưới mức cân bằng, xuất hiện tình trạng cầu vượt cung. Do đó lãi suất sẽ tăng cho đến khi đạt mức lãi suất cân bằng.
Lãi suất hoạt động theo cơ chế cung- cầu quĩ cho vay nên bất kì một sự dịch chuyển nào của đường cầu (hoặc đường cung quĩ cho vay) xảy ra khi lượng cầu hoặc lượng cung thay đổi ở một mức lãi suất cho trước để đáp lại một sự thay đổi của một yếu tố khác nào đó ngoài lãi suất sẽ dẫn đến một sự thay đổi lãi suất cân bằng, xuất hiện một giá trị cân bằng mới cho lãi suất.
Giả thiết rằng khi nghiên cứu tác động của một sự thay đổi của một biến số thì các biến số khác không bị thay đổi, như vậy chúng ta sẽ thấy những nhân tố trực tiếp nào làm cho đường cung- cầu quĩ cho vay dịch chuyển thì cũng trực tiếp tác động tới lãi suất cân bằng.
Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu những nhân tố trực tiếp và gián tiếp tác động tới lãi suất cân bằng để từ đó biết được công cụ kiểm soát trong điều kiện hiện nay là gì.
1.3.2. Các nhân tố tác động tới lãi suất
*Những nhân tố trực tiếp: đó là những nhân tố mà khi bản thân nó thay đổi thì cũng kéo theo sự dịch chuyển của đường cung và cầu quĩ cho vay, do đó nó sẽ trực tiếp tác động tới lãi suất
Lạm phát dự tính
Khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống do đó lượng cầu quĩ cho vay tăng lên ở bất kì lãi suất nào cho trước và đường cầu quĩ cho vay sẽ dịch chuyển về bên phải. (Hình 4). Đồng thời khi lạm phát dự tính tăng lên có nghĩa là giá cả hàng hoá dự tính tăng lên, do đó tăng lợi tức dự tính của những tài sản thực. Lạm phát dự tính tăng cũng làm cho tiền tệ mất giá do đó sẽ làm sụt giảm lợi tức dự tính của những tài sản tài chính so với tài sản thực. Nghĩa là với một lãi suất cho trước, sự tăng lên của lạm phát dự tính sẽ làm sụt giảm lợi tức thực dự tính của việc cho vay, do đó lượng cung quĩ cho vay sẽ giảm xuống ở bất kì lãi suất nào cho trước. Vì thế, đường cung quĩ cho vay sẽ dịch chuyển về bên trái (từ S1 đến S2).
H.4: Sự thay đổi của lãi suất cân bằng khi lạm phát dự tính thay đổi
Lãi suất S2
D1 D2 S1
i2 N
i1 P
Quỹ cho vay
Lúc đầu khi đường cung và cầu quĩ cho vay cắt nhau tại P ta có lãi suất cân bằng i1. Lạm phát dự tính tăng đã làm S1 dịch chuyển sang S2 và D1 sang S2. Điểm cân bằng dịch chuyển lên N, tương ứng lãi suất cân bằng cũng tăng từ i1 lên i2.
Như vậy qua phân tích cung cầu quĩ cho vay ta thấy khi lạm phát dự tính tăng thì lãi suất sẽ tăng. Kết quả này được gọi là hiệu ứng Fisher (Fisher là người đầu tiên đưa ra mối liên hệ giữa lãi suất và lạm phát).
Thời giá của các tài sản tài chính
Thời giá của các tài sản tài chính là giá cả hiện thời của tài sản tài chính trên thị trường. Do đó, thời giá của tài sản tài chính phụ thuộc vào lượng cung và cầu về tài sản tài chính.
Tài sản tài chính có nhiều loại nhưng chúng ta chủ yếu xem xét đến các tài sản tài chính nợ (trái khoán) bởi sự biến động của giá trái khoán có ảnh hưởng nhiều đến lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Khi lượng cầu trái khoán tăng (từ DB1 đến DB2), lượng cung trái khoán giảm (từ SB1 đến SB2) thì sẽ làm cho giá cả của trái khoán trên thị trường tăng (từ P1 đến P2). Đồng thời lượng cầu trái khoán tăng nghĩa là cung quĩ cho vay tăng tăng, lượng cung trái khoán giảm nghĩa là cầu quĩ cho vay giảm. Do đó đường cung quĩ cho vay sẽ dịch sang phải (từ S1 sang S2) và đường cầu quĩ cho vay sẽ dịch sang trái (từ D1 sang D2). Kết quả là lãi suất cân bằng sẽ giảm. (Từ i1 đến i2).
Hình 5: Mối quan hệ giữa thời giá của TSTC đến lãi suất.
Giá TK DB2 Lãi suất D1 S1
DB1 SB2 D2
P2 SB1 i1 S2
P1 i2
Số lượng TK Quỹ cho vay
Rủi ro của món vay
Có hai nhân tố cấu thành trong bất kì một lãi suất nào. Thứ nhất, đó là phần tiền trả cho người cho vay khi anh ta trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Thứ hai, là phần tiền trang trải yếu tố rủi ro trong trường hợp vốn không được trả. Khi cho vay vốn mà không phải lo bất kì rủi ro nào thì lãi suất trong trường này là lãi suất ròng (pure interest rate), ví dụ như khoản lãi trả cho các chứng khoán của chính phủ vì không thể xảy ra việc chính phủ không thanh toán.
Nếu rủi ro trong việc hoàn trả vốn càng cao thì cung quĩ cho vay sẽ giảm, đường cung quĩ cho vay dịch sang trái, do đó đẩy lãi suất cân bằng tăng lên. Như vậy, lãi suất và rủi ro của khoản vay có quan hệ thuận chiều với nhau.
Tính lỏng của các tài sản tài chính
Tính lỏng của các tài sản tài chính được quyết định bởi hai yếu tố:
Thứ nhất là khả năng hoán đổi ra tiền mặt
Thứ hai là cho phí quản lí và chi phí hoán chuyển ra tiền mặt như chi phí bảo quản, chi phí môi giới, chi phí luật sư, chi phí thanh toán…
Một tài sản tài chính có tính lỏng cao là một tài sản tài chính có thể chuyển đổi sang tiền mặt một cách nhanh chóng với chi phí quản lí và chi phí hoán chuyển thấp.
Tính lỏng của các tài sản tài chính tăng thì tài sản tài chính càng được ưa chuộng, lượng cầu tài sản tài chính càng tăng, do đó cung quĩ cho vay tăng, đường cung quĩ cho vay dịch chuyển sang phải làm cho lãi suất cân bằng giảm xuống. Tương tự, khi tính lỏng của những tài sản thay thế tăng cao hơn so với các tài sản tài chính sẽ làm cho lượng cầu tài sản tài chính giảm xuống, do đó cung quĩ cho vay giảm, lãi suất cân bằng tăng lên.
ảnh hưởng của lãi suất quốc tế đến lãi suất quốc gia
Trong một nền kinh tế mở, mọi biến động trên thị trường tài chính quốc tế sẽ có ảnh hưởng tới thị trường tài chính trong nước. Khi lãi suất thực quốc tế mà nhỏ hơn lãi suất thực quốc gia thì sẽ khuyến khích những người muốn đầu tư đi vay tiền nước ngoài, điều đó làm cho đường cầu quĩ cho vay dịch chuyển sang trái. Đồng thời những người có tiền tiết kiệm sẽ muốn cho nước ngoài vay tiền để hưởng lãi suất cao hơn làm cho đường cung quĩ cho vay dịch chuyển sang trái. ( hình 6).
Hình 6: ảnh hưởng của lãi suất quốc tế đến lãi suất quốc gia.
Lãi suất
S2 S1
i1
i2
D2 D1
Quỹ cho vay
Tuy nhiên khoản đầu tư chiếm tỉ trọng lớn trong tổng cầu quĩ cho vay còn khoản tiết kiệm người dân gửi ra nước ngoài không đáng kể trong tổng cung quĩ cho vay do đó đường cung dịch chuyển ít hơn đường cầu. Điều đó làm cho lãi suất cân bằng giảm xuống.
Như vậy một sự giảm sút của lãi suất quốc tế sẽ kéo theo sự sụt giảm của lãi suất quốc gia.
*Những nhân tố gián tiếp: Đó là những nhân tố mà khi chịu tác động của một chính sách bên ngoài, nó sẽ làm dịch chuyển đường cung- cầu quĩ cho vay, từ đó tác động tới lãi suất cân bằng.
Chính sách tài chính của nhà nước: là chính sách chi tiêu và chính sách thuế của chính phủ. John Maynard Keynes nhận thấy rằng chính sách chi tiêu của chính phủ và chính sách thuế cũng ảnh hưởng tới tổng cầu tiền tệ và do đó nó được sử dụng để khôi phục kinh tế và tăng công ăn việc làm.
Khi nhà nước thực hiện một chính sách bành trướng: tăng chi tiêu của chính phủ thì sẽ làm làm tăng lượng cầu quĩ cho vay, làm cho đường cầu quĩ cho vay dịch chuyển về bên phải, do đó làm cho lãi suất tăng lên. Đồng thời với việc thực hiện một chính sách tài chính bành trướng là việc giảm thu thuế. Mặc dù thuế giảm không trực tiếp ảnh hưởng tới tổng cầu nhưng nó sẽ làm tăng số thu nhập từ đầu tư mới do đó sẽ kích thích đầu tư, làm cho cầu quĩ cho vay tăng lên. Mặt khác, một sự giảm xuống của thuế cũng sẽ tăng số thu nhập sẵn sàng để chi tiêu, từ đó làm tăng cầu quĩ cho vay. Kết quả là lãi suất cân bằng sẽ tăng lên.
Ngược lại, một chính sách tài chính thắt chặt (giảm chi tiêu của chính phủ hoặc tăng thuế) sẽ làm đảo ngược quá trình trên và làm cho lãi suất giảm xuống.
Chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương
Theo lý thuyết cung- cầu quĩ cho vay thì lượng cung và cầu quĩ cho vay sẽ xác định lãi suất cân bằng. Theo lí thuyết ưa thích tiền mặt của John. M. Keynes thì lãi suất cân bằng được xác định dựa vào lượng cung và cầu tiền tệ. Tuy nhiên, theo Keynes thì việc xác định lãi suất cân bằng bằng cách làm cân bằng lượng cung và lượng cầu quĩ cho vay hay làm cân bằng lượng cung và cầu tiền tệ thì đều như nhau. Ông cho rằng, cầu tiền tệ bao gồm cầu giao dịch, cầu đầu cơ và cầu dự phòng, trong đó cầu giao dịch chiếm tỉ trọng lớn nhất. Khi cầu tiền tệ tăng thì cũn