Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế, không có quốc gia nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương. Xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá càng thể hiện một cách rõ nét chẳng hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO, EU, ASEAN, APEC
124 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách thương mại xuất khẩu dưới góc độ tiếp cận các chỉ tiêu tài chính trong lộ trình Việt Nam gia nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Thế giới đã và đang diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Các quốc gia trên thế giới phụ thuộc lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế, không có quốc gia nào phát triển mà không mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt là ngoại thương. Xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá càng thể hiện một cách rõ nét chẳng hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức kinh tế khu vực và thế giới: WTO, EU, ASEAN, APEC ... với những thành tựu và khả năng ứng dụng của công nghệ thông tin trên thế giới diễn ra hết sức sôi động và phát triển như vũ bão. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia.
Toàn cầu hoá và hội nhập là xu hướng được khởi xướng từ các nước phát triển, nhưng cho đến nay nó đã và đang cuốn tất cả các nước, kể cả những nước chậm phát triển nhất, vào quỹ đạo của mình như một tất yếu. Nó đang thiết định những nguyên tắc mới cho “cuộc chơi” trên thế giới, chung cho tất cả các nước mà không phân biệt lớn hay nhỏ, phát triển hay kém phát triển.
Đối với Việt Nam, với bước chuyển sang hệ thống kinh tế thị trường có điều tiết vĩ mô theo định hướng xuất khẩu, xu hướng này cũng đang tác động rất mạnh, có ảnh hưởng to lớn và toàn diện đến tất cả các khía cạnh của đời sống kinh tế–chính trị–xã hội. Hiện nay, càng tiến sâu vào quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn những mặt tích cực lẫn tiêu cực của tác động này. Chính điều này là cơ sở đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một chính sách thương mại phù hợp với xu hướng này tạo điều kiện cho sự phát triển KT-XH trong tình hình mới.
Thực tiễn cho thấy trong những năm vừa qua việc Việt Nam gia nhập ASEAN (07/1995) đánh dấu một bước khởi đầu trong tiến trình hội nhập với các tổ chức kinh tế trên thế giới. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã cam kết thực hiện CEPT/AFTA. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đặt ra cho Việt Nam những cơ hội như tăng khả năng thâm nhập vào thị trường mới từ đó làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng nguồn thu ngoại tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước và những thách thức mới do việc hội nhập đòi hỏi phải tuân thủ các nguyên tắc và luật chơi điều tiết thương mại quốc tế mà điều cơ bản là phải mở cửa thị trường hơn nữa cho sự cạnh tranh công bằng và bình đẳng của hàng hoá và dịch vụ nước ngoài với nguyên tắc có đi có lại, trong khi hệ thống chính sách kinh tế–thương mại chưa hoàn chỉnh, sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ Việt Nam còn kém và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp. Cạnh đó yêu cầu của hội nhập buộc Việt Nam phải cắt giảm thuế quan sẽ là một nhân tố làm giảm nguồn thu ngân sách nhà nước nó yêu cầu phải thay đổi cơ cấu nguồn thu ngân sách nhà nước để tăng thu ngân sách nhà nước, đảm bảo cân đối giữa thu và chi NSNN trong tình hình mới. Do vậy việc có một chính sách thương mại hợp lí đáp ứng đầy đủ được những yêu cầu của hội nhập kinh tế là rất cần thiết.
Xuất phát từ những nhận thức nói trên với nhiệm vụ và thực tế của đợt thực tập trong năm cuối bậc Đại học chúng tôi chọn đề tài “Hoàn thiện chính sách thương mại xuất khẩu dưới góc độ tiếp cận các chỉ tiêu tài chính trong lộ trình Việt Nam gia nhập AFTA” cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Với mục đích hệ thống hoá một số vấn đề lí luận cơ bản về chính sách thương mại xuất nhập khẩu từ góc độ các chỉ tiêu tài chính vĩ mô trong điều kiện hội nhập. Và từ sự phân tích thực trạng của chính sách thương mại xuất khẩu của Việt Nam trong lộ trình hội nhập AFTA, sẽ là cơ sở đánh giá các mặt ưu nhược điểm trong chính sách thương mại xuất khẩu của Việt Nam. Qua đó đề xuất một số biện pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách thương mại xuất khẩu trong thời gian tới nhằm thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp của Việt Nam đảm bảo cho họ có thể cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước từ đó làm tăng thu ngân sách cho nhà nước và cải thiện đời sống kinh tế xã hội trong nước.
Đối tượng, pham vi nghiên cứu của đề tài là một số công cụ và quá trình thực hiện của chính sách thương mại trong lĩnh vực xuất khẩu hiện nay của Đảng và nhà nước ta, cùng với những quy định của hiệp định chung về thuế quan CEPT-AFTA đối với thương mại hàng hoá trong lộ trình Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào AFTA. Đây là một đề tài phức tạp đòi hỏi giải quyết đồng bộ nhiều yếu tố, lĩnh vực khác nhau vận dụng nhiều kiện thức từ nhiều môn học như chiến lược và chính sách thương mại, kinh tế thương mại cùng nhiều môn học chuyên ngành khác. Mặc dù đã cố gắng để có thể bao hàm các nội dung và yêu cầu đặt ra, nhưng do gặp nhiều khó khăn nhất định về điều kiện thu thập thông tin, thời gian cũng như năng lực nghiên cứu nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các cán bộ công tác tại Bộ Tài Chính, các thầy cô, các nhà khoa học và các bạn để có thể hoàn chỉnh cho bài luận văn được tốt hơn.
Đề tài này sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng trong quá trình nghiên cứu và quán triệt đẩy đủ đường lối và chủ trương của Đảng và nhà nước Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các phương pháp cụ thể như nghiên cứu theo tài liệu, biểu hình hoá, sơ đồ hoá, phương pháp sử dụng các chỉ số trong phân tích, tổng hợp, so sánh. Đề tài này có kế thừa một số kết quả nghiên cứu trước đó.
Kết cấu đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục luận văn của tôi được chia làm ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản của hoàn thiện chính sách thương mại XNK từ góc độ tiếp cận các chỉ tiêu tài chính trong lộ trình hội nhập AFTA.
Chương 2: Thực trạng CSTM xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập CEPT-AFTA.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách thương mại xuất khẩu của Việt Nam trong quá trình hội nhập AFTA dưới góc độ các chỉ tiêu tài chính.
Chương 1: Một số vấn đề lí luận cơ bản của hoàn thiện chính sách thương mại XNK từ góc độ tiếp cận các chỉ tiêu tài chính trong lộ trình hội nhập AFTA
1.1 Chính sách thương mại XNK trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay.
1.1.1 Khái niệm về chính sách thương mại, thương mại XNK và vai trò quản lý kinh tế của nhà nước .
* Khái niệm về chính sách thương mại: Chính sách thương mại là hệ thống các nguyên tắc và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động thương mại trong một thời kỳ nhất định phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Nó là một bộ phận quan trọng của chính sách kinh tế - xã hội của đất nước. Có quan hệ chặt chẽ và phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình tái sản xuất, cải tiến cơ cấu kinh tế, đến quy mô và phương thức của nền kinh tế quốc dân tham gia vào phân công lao động và thị trường quốc tế.
* Vai trò quản lý kinh tế của nhà nước: trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước thì nhà nước luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong quản lý kinh tế đó là ổn định và phát triển kinh tế của đất nước, điều tiết kinh tế cả về vi mô và vĩ mô để đưa nền kinh tế nước nhà đi đúng hướng.
* Chính sách thương mại XNK : Chính sách thương mại XNK là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng quản lý, điều chỉnh các hoạt động thương mại XNK của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục đích đã định trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong một quốc gia.
Việc tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, đang đưa lại nhiều lợi ích to lớn nhưng với nhiều lý do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách thương mại quốc tế cũng như chính sách thương mại XNK riêng thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại XNK có liên quan đến nền kinh tế quốc gia.
Chính sách thương mại XNK của một quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Bởi vậy nó chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên tắc nhằm chống lại sự phân biệt đối sử, đảm bảo sự có đi có lại cho các bên tham gia hợp tác và buôn bán quốc tế.
Do môi trường kinh tế thế giới đang còn bị chi phối và tác động bởi vì mối quan hệ chính trị và các mục tiêu phi kinh tế khác cho nên chính sách thương mại quốc tế và chính sách thương mại XNK của mỗi quốc gia cùng phải đáp ứng với nhiều mục tiêu cụ thể khác nhau của từng thời kỳ. Những mục tiêu chung của chính sách thương mại XNK là nhằm điều chỉnh các hoạt động thương mại XNK theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia trong điều kiện mở rộng và phát triển các quan hệ hợp tác và phân công lao động quốc tế.
Nội dung của chính sách thương mại XNK.
Chính sách XNK bao gồm nhiều nội dung khác nhau của hoạt động xuất nhập khẩu như xuất khẩu các hàng hoá hữu hình (như nông lâm hải sản, hàng hoá công nghiệp, khoáng sản .v.v.) và các hàng hoá vô hình (các sản phẩm dịch vụ như dịch vụ viễn thông, du lịch .v.v.), tạm nhập để tái xuất hay tạm xuất để tái nhập, quá cảnh hàng hoá, chuyển giao sử dụng công nghiệp, gia công chế biến hàng hoá xuất khẩu, đầu tư cho xuất khẩu, thuê nước ngoài gia công chế biến, đại lí bán hàng hoá, uỷ thác hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu và XNK trực tiếp .v.v. đi cùng với chính sách này là một loạt các công cụ hỗ trợ cho hoạt động XNK này là các chính sách như :
Chính sách thị trường và chính sách mặt hàng.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu
Chính sách phi thuế quan
Chính sách quản lý ngoại tệ và tỷ giá hối đoái.
Chính sách cán cân thương mại và cán cân thanh toán
Chính sách tài trợ xuất khẩu
Chính sách kỹ thuật thực thi nhập khẩu
Chính sách điều chỉnh về thể chế thương mại
Chính sách điều chỉnh về khuôn khổ luật pháp
Chính sách điều chỉnh về hệ thống kinh doanh phục vụ
.................................................
* Chính sách quản lý xuất nhập khẩu là: Nhà nước quản lý và điều tiết hoạt động thương mại quốc tế thông qua công cụ rất quan trọng là chính sách quản lý. Chính sách quản lý thương mại quốc tế của nhà nước là các nghị định, quyết định, quy định của chính phủ và các cơ quan của chính phủ về lĩnh vực thương mại quốc tế đó là các chính sách quản lý xuất nhập khẩu .
Nội dung của chính sách quản lý xuất nhập khẩu bao gồm: Chính sách quản lý về mặt hàng xuất nhập khẩu, chính sách quản lý về cơ chế giá cả,chính sách quản lý về quota và giấy phép xuất nhập khẩu, chính sách quản lý về tỷ giá hối đoái, chính sách quản lý về đối tượng kinh doanh xuất nhập khẩu, chính sách quản lý về thuế xuất nhập khẩu, chính sách quản lý về cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, chính sách quản lý về tài trợ và bảo hiểm xuất khẩu.
1.1.2 Một số công cụ chủ yếu điều tiết hoạt động của chính sách thương mại XNK.
1.1.2.1 Chính sách thị trường và chính sách mặt hàng.
a) Chính sách thị trường đây là chính sách có tầm quan trọng đặc biệt với sự phát triển kinh tế của một quốc gia và với mục đích đề ra là khai thông những cản trở của thị trường. Chính sách này chia thị trường thành hai loại như sau :
-Với thị trường trong nước chính sách đưa ra định hướng cho tập trung nguồn lực để tổ chức sản xuất hàng hoá sao cho phù hợp với nhu cầu của sản xuất và của thị trường, đồng thời nó đưa ra những quy hoạch và cơ cấu lại các vùng chuyên canh một cách hợp lí và nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Đảm bảo cho hệ thống lưu thông hàng hoá thông suốt giữa các vùng, các địa phương và đảm bảo cho sản xuất, lưu thông và tiêu dùng hàng hoá cân đối tránh những khủng hoảng và bất ổn trên thị trường. Bên cạnh đó chính sách thị trường đưa ra để hình thành đồng bộ các loại thị trường và thực hiện chính sách nhất quán, ổn định để các chủ thể chủ động với các tình thế trên thị trường
-Với thị trường ngoài nước: nó bao hàm những chính sách thúc đẩy xuất khẩu và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu như để đa dạng hoá thị trường xuất khẩu thì cụ thể cần có chính sách cung cấp các thông tin thị trường cho các nhà xuất khẩu.
+Chính sách thị trường nước ngoài yêu cầu tập trung chú trọng phát triển những thị trường truyền thống đồng thời tiếp cận và phát triển thị trường mới do vậy nhà nước đưa ra những chính sách khuyến khích động viên các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tìm kiếm đối tác nước ngoài của doanh nghịêp như chính sách thưởng cho những doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng từ 20% trở lên hoặc đưa ra chính sách hỗ trợ tăng cường tổ chức các cuộc gặp gỡ tiếp xúc giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài .
+Trong chính sách việc tập trung hoạt động nghiên cứu thị trường và công tác thông tin về thị trường có ý nghĩa hết sức quan trọng ảnh hưởng lớn đến khả năng thành công trong công tác XNK của các doanh nghiệp cũng như lợi nhuận của họ. Vì vậy cần nâng cao hiệu quả của công tác nghiên cứu dự báo thị trường hiệu quả đảm bảo thông tin thường xuyên, thông suốt, nhiều chiều và các thông tin dự báo về tình hình thị trường trong nước và quốc tế. Kết hợp chặt chẽ mạng lưới thu thập thông tin chuyên ngành và đa ngành đồng thời ta cũng cần phải thấy được vai trò của các tham tán và tuỳ viên thương mại trong việc cung cấp thông tin tìm kiếm thị trường nước ngoài.
b) Chính sách mặt hàng:
Chính sách mặt hàng là nền tảng của chính sách thương mại quốc gia nói chung cũng như chính sách thương mại XNK nói riêng, nó là cơ sở để xác định đầu tư và cơ cấu lại sản xuất một cách hợp lí.
Chính sách mặt hàng bao gồm: Chính sách mặt hàng cấp quốc gia đưa ra danh mục mặt hàng được đưa vào cân đối của nhà nước, được nhà nước quản lí tập trung. Đây là những mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế của một nước như vũ khí, các mặt hàng công nghệ cao...Danh mục mặt hàng cấp quốc gia gồm tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia; những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn và những mặt hàng cạnh tranh cấp quốc gia.
Trong chính sách này cần xây dựng cơ cấu những mặt hàng xuất khẩu chủ lực (mũi nhọn) đó là những mặt hàng có khả năng phát triển sản xuất trong nước và đưa nhanh sản xuất lên cao, có hiệu quả kinh tế nhiều hơn so với loại hàng khác, có thị trường tiêu thụ rộng rãi, ổn định, vững chắc và lâu dài. Những mặt hàng chủ lực cần thoả mãn được 3 điều kiện; Một là phải chiếm vị trí trọng yếu trong cơ cấu hàng xuất khẩu, có khối lượng lớn, có giá trị cao trong kim ngạch XK, nếu là nguyên liệu sản suất thì phải có khả năng đảm bảo cung cấp thường xuyên cho nhu cầu xuất khẩu, có phẩm chất và giá cả ổn định trong thời gian dài, nếu là hàng tiêu dùng thì phải có số lượng lớn và phẩm chất ổn định, gây thói quen cho người tiêu dùng. Hai là phải có điều kiện thuận lợi để sản xuất trong nước với chi phí thấp nhất và ngày càng tiến bộ về công nghệ sản xuất. Ba là phải có thị trường tiêu thụ vững chắc và lâu dài, tạo thế chủ động trong việc trao đổi quốc tế. Nếu thiếu một trong 3 điều kiện này thì không thể coi là hàng xuất khẩu chủ lực.
Chính sách mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu và chính sách xuất khẩu là những măt hàng mà sản xuất trong nước đã đáp ứng được nhu cầu. Đó là những mặt hàng dựa trên lợi thế tài nguyên quốc gia, lao động, công nghệ ví dụ như Hà Lan xuất khẩu hoa, Việt nam XK gạo, Mĩ XK các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao như con chip điện tử .v.v. Lúc đầu nhà nước đưa ra chính sách mặt hàng thay thế nhập khẩu sau đó khi năng lực sản xuất đã có, đáp ứng tốt được nhu cầu tiêu dùng trong nước thì tiến tới xuất khẩu cùng với những mặt hàng mà trong nước có lợi thế.
1.1.2.2 Chính sách thuế xuất nhập khẩu
Thuế quan là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất nhập khẩu hoặc quá cảnh như vậy là thuế quan bao gồm cả thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu .
Thuế nhập khẩu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng nhập khẩu, theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu ngoại quốc thu được. Khác với thuế nhập khẩu thuế xuất khẩu là thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu.Thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu đều tác động đến giá hàng hoá có liên quan nhưng thuế xuất khẩu khác thuế nhập khẩu ở hai điểm: Một là, nó đánh vào hàng hoá xuất khẩu chứ không phải hàng hoá nhập khẩu; Hai là, nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá xa giá cả trong nước (chứ không phải ngược lại), hay nói cách khác nó hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm cho sản lượng trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho mặt hàng này (trong một số trường hợp việc đánh thuế xuất khẩu không làm cho khối lượng xuất khẩu giảm đi nhiều mà vẫn có lợi nhiều cho nước xuất khẩu). Vì vậy mà các nước công nghiệp phát triển hiện nay hầu như không áp dụng thuế xuất khẩu cho nên thuế quan ở những nước này thường đồng nhất với thuế nhập khẩu. Thuế nhập khẩu được áp dụng phổ biến ở các nước, tuy rằng mức thuế có khác nhau. Đương nhiên, kết quả kinh tế của thuế nhập khẩu là làm cho giá trị hàng hoá trong nước vượt cao hơn mức giá nhập khẩu và chính người tiêu dùng trong nước phải trang trải cho gánh nặng thuế quan này. Bởi vậy, việc quy định tỷ lệ thuế nhập khẩu luôn là đề tài quan tâm từ nhiều phương diện.
Thuế quan được chia làm 3 loại: thuế quan tính theo giá trị, thuế quan tính theo số lượng và thuế quan hỗn hợp nhưng đa số các nước người ta dùng phương pháp tính thuế quan theo giá trị hàng hoá thương mại đây là một loại thuế đánh theo bằng tỉ lệ phần trăm theo giá trị của hàng hoá thương mạ. Phần lớn nội dung các hiệp định thương mại quốc tế đều dùng phương pháp này để tính thuế, trong hiệp định CEPT-AFTA cũng vậy.
Thuế quan được biết đến từ lâu như một hình thức lâu đời nhất của chính sách thương mại và là một công cụ mang tính chất truyền thống làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Thuế xuất nhập khẩu tác động đến hoạt động xuất khẩu trong hai trường hợp sau:
Thuế nhập khẩu: Xem xét trong trường hợp một nước nhỏ áp dụng thuế đối với nhập khẩu để giảm sức cạnh tranh của hàng hoá nhập khẩu với hàng hoá sản xuất trong nước. Tại mức giá thế giới Pw, khi không có thuế, nước này sẽ sản xuất ở mức So nhu cầu tiêu dùng ở mức Do, do vậy cần phải nhập khẩu một khối lượng là Do-So (hình a). Khi chính phủ đánh thuế nhập khẩu, giá hàng hoá trong nước sẽ tăng lên tới Pw(1+t), cầu tiêu dùng trong nước sẽ giảm xuống D1, sản xuất trong nước sẽ tăng lên S1 và khối lượng hàng nhập khẩu sẽ giảm xuống còn D1-S1. Như vậy là đánh thuế nhập khẩu giúp cho sản xuất trong nước tăng lên làm giảm lượng cầu về hàng hoá trên thị trường nội địa và tăng thu ngân sách nhà nước phân phối lại thu nhập từ những người tiêu dùng trong nước cho những người sản xuất trong nước (tức là chuyển một phần tiềm năng sản xuất hàng hoá có hiệu quả sang duy trì sản xuất một hàng hoá không hiệu quả).
Thuế xuất khẩu: Khi đánh thuế xuất khẩu, giá cả trong nước sẽ thấp hơn giá cả quốc tế. Sản xuất trong nước sẽ giảm từ S0 xuống S1, tiêu dùng trong nước sẽ tăng từ Do lên D1, do vậy xuất khẩu sẽ giảm từ So-Do xuống còn S1-D1 (xem hình b). Thuế xuất khẩu đã làm giảm khả năng xuất khẩu của hàng hoá trong nước vì vậy mà hiện nay người ta ít áp dụng thuế xuất khẩu trừ một số trường hợp đánh vào các hàng hoá truyền thống nhằm thu được giá sao hơn và tăng lợi ích quốc gia.
Sơ đồ: Tác động của thuế xuất nhập khẩu đến hoạt động xuất khẩu.
P
E
PW(1+t)
D1
So
S1
S1 So
Dd
PW
Sd
Do
D1
Hình a.
Hình b.
P
Dd
Sd
PW
PW(1+t)
0 D0 Q 0 Q
1.1.2.3 Chính sách phi thuế quan
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 vai trò của thuế quan đã bị suy giảm đặc biệt ở các nước công nghiệp, ngày nay mức thuế quan trung bình không quá 10% trên các hàng hoá công nghiệp, xu hướng ngày nay của các nước là chuyển từ hình thức thuế quan sang các hình thức phi thuế quan để bảo vệ sản xuất trong nước. Hạn ngạch là trở ngại phi thuế quan quan trọng nhất nó là hình thức hạn chế lượng trực tiếp đối với hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu, nó ấn định mức nhập khẩu hay xuất khẩu cao nhất của một hàng hoá trong một thời kì nhất định thông thường qua hình thức cấp giấy phép xuất nhập khẩu. Trên thế giới quản lý bằng hạn ngạch thường chỉ đặt ra đối với hàng nhập khẩu, hạn ngạch nhập khẩu có thể mang tính chấ