Trong những năm qua, tạo việc làm cho người lao động trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Với Thái Bình một tỉnh đông dân và kinh tế chậm phát triển thì vấn đề này lại càng gay gắt. Đã có rất nhiều giải pháp được đặt ra và thực hiện trong đó có XKLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Giải pháp này là giải pháp tình thế hết sức hiệu quả vì nó không những làm giảm sức ép về việc làm trong tỉnh mà còn tạo một nguồn thu nhập đáng kể cho người lao động và hơn thế nữa là nó tạo ra những tiền đề cho những giải pháp lâu dài khác.
58 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác quản lý lao động xuất khẩu tại Trung tâm đào tạo - Giới thiệu việc làm Tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong những năm qua, tạo việc làm cho người lao động trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Với Thái Bình một tỉnh đông dân và kinh tế chậm phát triển thì vấn đề này lại càng gay gắt. Đã có rất nhiều giải pháp được đặt ra và thực hiện trong đó có XKLĐ đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Giải pháp này là giải pháp tình thế hết sức hiệu quả vì nó không những làm giảm sức ép về việc làm trong tỉnh mà còn tạo một nguồn thu nhập đáng kể cho người lao động và hơn thế nữa là nó tạo ra những tiền đề cho những giải pháp lâu dài khác.
Với hơn 10 năm hoạt động trung tâm đào tạo và giới thiệu việc làm tỉnh Thái Bình đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể song vẫn còn một số tồn tại và đang đứng trước nhiều thách thức mới. Sức ép về việc làm trong tỉnh, trình độ của người lao động đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường đòi hỏi công tác quản lý lao động xuất khẩu cần được điều chỉnh để đi đến hoàn thiện hơn nữa. Vì vậy em chọn đề tài “ Hoàn thiện công tác quản lý lao động xuất khẩu tại Trung tâm đào tạo - Giới thiệu việc làm Tỉnh Thái Bình” làm đề tài thực tập.
Đề tài được chia làm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lý luận về quản lý lao động xuất khẩu.
Phần II: Phân tích thực trạng quản lý lao động xuất khẩu tại Trung tâm Đào tạo - Giới thiệu việc làm Tỉnh Thái Bình trong những năm qua.
Phần III: Phương hướng, mục tiêu và những giải pháp đẩy mạnh quản lý lao động xuất khẩu tại Trung tâm đào tạo - Giới thiệu việc làm trong thời gian tới.
Phương pháp phân tích của đề tài: Dựa vào số liệu của trung tâm từ năm 2000 đến nay và kết quả điều tra lao động xuất khẩu trong thời gian thực tập.
Tuy đã có nhiều cố gắng nhưng trình độ có hạn chuyên đề vẫn chưa được hoàn thiện, em mong có sự đóng góp của thầy cô và các cô chú ở trung tâm.
Nội dung
Phần I : Cơ sở lý luận về quản lý lao động xuất khẩu
I. Những khái niệm cơ bản liên quan đến XKLĐ
1. Việc làm- Thất nghiệp.
1.1. Việc làm.
- Việc làm theo quy định của bộ luật lao động là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại cho người lao động.
- Việc làm là nhu cầu, quyền lợi nhưng đồng thời cũng là nghĩa vụ và trách nhiệm đối với mọi người.
- Theo Đại hội đảng lần thứ VII : "mọi việc mang lại thu nhập cho người lao động có ích cho xã hội đều được tôn trọng".
Việc làm được thể hiện dưới các dạng sau:
- Làm những công việc mà người lao động khi thực hiện nhận được tiền lương, tiền công bằng tiền mặt hay hiện vật cho công việc đó.
- Làm những công việc khi người lao động thực hiện thu lợi nhuận cho bản thân (người lao động có quyền sử dụng quản lý hoặc sở hữu tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân để sản xuất sản phẩm).
- Làm những công việc cho hộ gia đình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức tiền công,tiền lương cho công việc đó (do chủ gia đình làm chủ sản xuất).
1.2 Thất nghiệp.
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về thất nghiệp, nhưng nhìn chung đều xoay quanh ba đặc trưng của người thất nghiệp đó là: những người có khả năng lao động nhưng không có việc làm và đang đi tìm việc. Có một số định nghĩa sau về thất nghiệp:
- Theo tổ chức thất nghiệp quốc tế (ILO): thất nghiệp bao gồm những người phần lớn thời gian trong thời kỳ quan sát không làm việc nhưng đang tìm việc làm.
- Theo viện lao động khoa học: thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm với mức tiền công thịnh hành.
- Thất nghiệp là những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao .động, muốn làm việc và đã đăng kí với cơ quan môi giới về lao động nhưng chưa được giải quyết (tạp chí lao động-xã hội số 118 tháng 11/1996).
- Người thất nghiệp là người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ trước điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc (Quy định của bộ LĐTBXH năm 1996).
2.Tạo việc làm.
- Là hoạt động kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật ngăn cấm.
- Người tạo ra công việc cho người lao động có thể là Chính phủ thông qua các chính sách, có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế (các công ty, doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động kinh doanh …) và cả những cá nhân thông qua các hoạt động thuê mướn nhân công.
3. Kinh tế quốc tế - Hội nhập kinh tế quốc tế
3.1. Kinh tế quốc tế
- Nền kinh tế thế giới (kinh tế quốc tế) Là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau thông qua sự phân công lao động quốc tế cùng với quan hệ kinh tế quốc tế của chúng.
- Sự phát triển của nền kinh tế thế giới phụ thuộc trước hết vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động quốc tế và vịêc phát triển quan hệ quốc tế.
- Ngàynay nền kinh tế thế giới là một thực thể đặc thù, duy nhất, có cơ cấu nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ quan hệ với những phạm vi hoạt động khác nhau. Các bộ phận cấu thành nền kinh tế thế giới tác động qua lại, nhiều chiều trong sự vận động , biến đổi không ngừng cả về lượng và chất.
3.2. Hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hội nhập kinh tế quốc tế là khái niệm mở, phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dung, phương hướng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế.
- Hội nhập kinh tế chỉ sự chủ động tham gia tích cực của một quốc gia vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa kinh tế thông qua các nỗ lực tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, songphương và đa phương nhưng vẫn giữ được sự kiểm soát và bản sắc riêng của nền kinh tế.
- hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các thành viên quan hệ với nhau theo những quy định chung.
4. Xuất khẩu lao động(XKLĐ)
XKLĐ trên bình diện quốc tế thường liên quan đến các khái niệm sau:
- Nhập cư( Immigration- Immigrant) chủ yếu đề cập người lao động (có nghề hoặc không có nghề) từ nước ngoài đến một nước nào đó để làm việc.
- Xuất cư( Emigration- Emigrant) chủ yếu đề cập tới người lao động ra đi từ một nước nào đó tới nước mà họ lao động ( có thể là từ quê hương hoặc từ một nước quá cảnh).
- XKLĐ( export of Labour) được hiểu như là công việc đưa người lao động từ nước sở tại đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn lao động.
- Lao động xuất khẩu( Labour export) nói về bản thân người lao động hoặc tập thể người lao động có những độ tuổi khác nhau, sức khoẻ và kỹ năng lao động khác nhau.
Như vậy việc di chuyển lao động trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có thể biến dạng khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa XKLĐ vừa mang ý nghĩa di chuyển lao động.
ở Việt Nam hiện nay XKLĐ chính yếu là nhằm mục đích kinh và đó là XKLĐ có tổ chức. Và ngày càng phát triển nhanh chóng ở các thị trường lao động trên thế giới.
II. Đặc điểm của XKLĐ.
1. XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động kinh tế.
ở nhiều nước trên thế giới, XKLĐ đã là một trong những giải pháp quan trọng thu hút lực lượng lao động đang tăng lên của nước họ và thu ngoại tệ bằng hình thức chuyển tiền về nước của người lao động và các lợi ích khác.
Những lợi ích này đã buộc các nước xuất khẩu phải chiếm lĩnh ở mức cao nhất thị trường lao động nước ngoài, mà việc chiếm lĩnh được hay không lại dựa trên quan hệ cung- cầu sức lao động, nó chịu sự điều tiết, tác động của các quy luật kinh tế thị trường. Bên cung phải tính toán mọi hoạt động của mình làm sao để bù đắp được chi phí và phần lãi, vì vậy cần phải có cơ chế thích hợp để tăng khả năng tối đa về cung ứng lao động. Bên cầu cũng phải tính toán kỹ lưỡng việc nhập khẩu lao động, làm sao để có thể đạt được hiệu quả cao nhất tránh lãng phí.
Như vậy việc quản lý nhà nước, sự điều chỉnh pháp luật luôn luôn phải bám sát đặc điểm này của hoạt động XKLĐ và chuyên gia làm sao để mục tiêu kinh tế phải là mục tiêu số 1 của mọi chính sách pháp luật về XKLĐ và chuyên gia.
2. XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động thể hiện rõ tính chất xã hội.
- XKLĐ và chuyên gia thực chất là xuất khẩu sức lao động không tách rời khỏi người lao động. Do vậy, mọi chính sách, pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ phải kết hợp với các chính sách xã hội: Phải đảm bảo làm sao để người lao động ở nước ngoài được lao động như cam kết trong hợp đồng lao động, cũng như đảm bảo các hoạt động công đoàn bảo vệ quyền lợi cho người lao động .
- Mặt khác, người lao động xuất khẩu dẫu sao cũng chỉ có thời hạn, do vậy cần phải có những chế độ tiếp nhận và sử dụng người lao động sau khi họ hoàn thành hợp đồng lao động nước ngoài trở về nước để họ có thể tiếp tục ding sức lao động của mình để tham gia vào quá trình sản xuất trong nước nâng cao hiệu quả lao động. Giúp đỡ người lao động kiếm tìm việc làm sau khi họ trở về nước, giảm thiểu thất nghiệp, tránh lãng phí về nguồn lao động có tay nghề này.
3. XKLĐ và chuyên gia là sự kết hợp hài hoà giữa sự quản lý vĩ mô của nhà nước và sự chủ động, tự chịu trách nhiệm của tổ chức XKLĐ đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài.
XKLĐ được thực hiện trên cơ sở hiệp định, thoả thuận về mặt nguyên tắc giữa các chính phủ và trên cơ sở của hợp đồng cung ứng lao động và chuyên gia.
- Trước đây( giai đoạn 1980- 1990) Việt Nam tham gia thị trường lao động quốc tế đã xuất khẩu lao động của mình qua các hiệp định song phương, trong đó quy định khá chi tiết về điều kiện ăn, ở, làm việc, đi lại, bảo vệ người lao động. Nghĩa là về cơ bản nhà nước vừa quản lý về mặt nhà nước về hợp tác lao động vừa quản lý sự nghiệp hợp tác lao động với nước ngoài.
- Ngày nay, trong cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hầu như toàn bộ hoạt động XKLĐ đều do các tổ chức XKLĐ thực hiện trên cơ sở hợp đồng đã ký. Đồng thời, các tổ chức này cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm toàn bộ khâu tổ chức đưa đi và quản lý người lao động tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh tế trong hoạt động XKLĐ của mình. Nhà nước chỉ quản lý ở tầm vĩ mô, đưa các chính sách, kế hoạch cũng như đinh hướng thị trường cho các tổ chức XKLĐ .
Như vậy, các hiệp định các thoả thuận song phương chỉ có tính chất nguyên tắc thể hiện vai trò và trách nhiệm nhà nước ở tầm vĩ mô.
4. XKLĐ và chuyên gia diễn ra trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Xã hội ngày càng phát triển và đặc biệt là sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới đã tạo ra một môi trường cạnh tranh lớn giữa các nước trên thế giới. Đặc biệt là vấn đề cạnh tranh về nguồn nhân lực cụ thể hơn đó chính là chất lượng của lao động. Bởi đó là nhân tố chính để phát triển đất nước, và nhu cầu về lao động của mỗi quốc gia cũng ngày một tăng.
Vì vậy mà có thể nói rằng tính gay gắt trong cạnh tranh của XKLĐ và chuyên gia xuất phát từ hai nguyên nhân chính sau:
- Một là, XKLĐ và chuyên gia mang lại lợi ích kinh tế khá lớn cho các nước đang có khó khăn về giải quyết việc làm. Do vậy, buộc các nước XKLĐ và chuyên gia phải cố gắng tối đa để chiếm lĩnh thị trường ngoài nước.
- Hai là, XKLĐ và chuyên gia đang diễn ra trong môi trường khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế trong khu vực. Nhiều nước trước đây thu nhận nhiều lao động nước ngoài như: Hàn quốc, Thái Lan… cũng đang đối đầu với tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng. Điều này ảnh hưởng đến việc tiếp nhận lao động trong thời gian tới.
Như vậy, các chính sách và pháp luật của Nhà nước cần phải lường trước được tính gay gắt trong cạnh tranh XKLĐ và chuyên gia để chương trình dài hạn cho marketing, đào tạo nguồn lao động và chuyên gia chất lượng cao để có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động quốc tế.
5. Phải đảm bảo lợi ích của ba bên trong quan hệ XKLĐ và chuyên gia.
Lợi ích ba bên ở đây chính là lợi ích của: Nhà nước, tổ chức XKLĐ và của người lao động.
- Lợi ích kinh tế của Nhà nước là khoản ngoại tệ mà người lao động gửi về và các khoản thuế.
- Lợi ích kinh tế của các tổ chức XKLĐ là các khoản thu được chủ yếu là các loại chi phí giải quyết việc làm ngoài nước.
- Lợi ích của người lao động là khoản thu nhập, thường là cao hơn nhiều so với lao động trong nước.
Vì có một lợi ích lớn như vậy mà các tổ chức XKLĐ có quyền đưa người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài rất dễ vi phạm qui định của Nhà nước sẽ khiến cho việc làm ngoài nước không thật hấp dẫn người lao động và chuyên gia.
Ngược lại, cũng vì chạy theo thu nhập cao mà người lao động và chuyên gia rất dễ vi phạm hợp đồng ký kết, gây khó khăn trong giải quyết các tranh chấp xảy ra tại nước bạn.
Do vậy, Nhà nước phải có các chế độ, chính sách, phải tính toán sao cho đảm bảo được sự hài hoà lợi ích giữa các bên, trong đó đặc biệt phải chú ý đến lợi ích của người lao động.
6. XKLĐ và chuyên gia là hoạt động đầy biến đổi.
Hoạt động XKLĐ phụ thuộc rất nhiều vào nước có nhu cầu nhập khẩu lao động và chuyên gia. Do vậy cần có sự phân tích toàn diện các dự án ở nước ngoài đang và sẽ thực hiện để xây dựng chính sách đào tạo và chương trình đào tạo giáo dục định hướng phù hợp và linh hoạt.
Chỉ có những nước nào chuẩn bị được đội ngũ nhân công với tay nghề thích hợp mới có điều kiện thuận lợi hơn trong việc chiếm lĩnh thị trường lao động ở nước ngoài. Và cũng chỉ có nước nào nhìn xa trông rộng, phân tích, đánh giá và dự đoán đúng tình hình mới không bị động trước sự biến đổi của tình hình, đưa ra chính sách đón đầu trong hoạt động XKLĐ và chuyên gia.
II. Nội dung quản lý lao động xuất khẩu của doanh nghiệp.
1. Lập kế hoạch xuất khẩu lao động.
Đây là khâu có vai trò chiến lược xác định phương hướng, chính sách và mục tiêu nhiệm vụ trong ngắn hạn và dài hạn cũng như đề xuất các giải pháp ưu tiên cho từng năm, từng lĩnh vực, từng thị trường xuất khẩu lao động. Đồng thời nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm xkld của các nước đi trước và khả năng cạnh tranh về lao động của ta với họ ở các thị trường nhận lao động xuất khẩu. Đẩy mạnh công tác ngoại giao, xúc tiến hợp tác với các nước về nhiều lĩnh vực trong đó có về xuất khẩu lao động. Tranh thủ đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động để nâng cao vị thế lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế cả về trình độ, năng lực, ý thức đạo đức và tác phong làm việc.
Mục tiêu cơ bản và lâu dài của công tác xuất khẩu lao động Việt Nam.
Căn cứ lập kế hoạch:
* Cầu lao động: Đây là khâu quyết định cho XKLĐ : một là, phải hiểu thị trường nước đến, nhu cầu và cơ cấu lao động như thế nào? Hai là, phải hiểu được chính sách luật pháp, văn hóa nước họ như thế nào xung quanh vấn đê XKLĐ?
Ai sẽ làm việc này? Phải phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều ngành, nhưng BLĐTB&XH, với tư cách là cơ quan quản lý có trách nhiệm chính. Trong đó vai trò của Bộ Ngoại giao, các Đại Sứ Quán, các doanh nghiệp trong tìm kiếm và tham gia cùng Bộ. Các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm đối tác theo qui định của nhà nước trên cơ sở khả năng của mình.
* Cung lao động: Tức là tạo nguồn lực để đưa lao động đi xuất khẩu lao động.
Quan điểm chỉ đạo của chính phủ về đẩy mạnh xuất khẩu lao động trên hai nguyên tắc: Một là, tăng nhanh số lượng lao động đưa đi nhưng phải quan lý chặt chẽ. Hai là, nhanh chóng thay thế lao động giản đơn bằng lao động có trình độ kỹ thuật. Đây là hai chủ chương rất rõ của nhà nước nên mỗi người làm về xuất khẩu lao động cần phải quán triệt một cách đầy đủ.
* Quản lý lao động xuất khẩu: Mỗi doanh nghiệp phải có chính sách quản lý theo quy định của nhà nước, đây vừa là trách nhiệm, vừa là nghĩa vụ để đảm bảo sự hoạt động lâu dài tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như lao động Việt Nam so với thế giới, thực hiện đúng chính sách XKLĐ vì lợi ích của ba bên.
à Từ việc phân tích cung cầu vềlao động, thực trạng, triển vọng, tồn tại , nguyên nhân để có chiến lược đưa ra giải pháp. Từ đó xác định các mục tiêu, các hoạt động thực hiện, có quyết định sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp
2. Tuyển chọn lao động xuất khẩu.
Tuyển chọn lao động xuất khẩu là việc quyết định xem trong số những người nộp đơn đi làm vịêc ở nước ngoài ai là người có đủ các tiêu chuẩn đi làm công việc đó. Muốn xuất khẩu lao động có chất lượng cao ra nước ngoài khâu đầu tiên có tính quyết định là tuyển chọn đúng. Do đó công tác tuyển chọn phải xác định rõ hai mục tiêu: chuẩn mực để tuyển chọn và qui trình tuyển chọn.
2.1. Các chuẩn mực tuyển chọn.
Trong mỗi ngành nghề khác nhau, mỗi chủ sử dụng lao động có nhu cầu sử dụng lao động khác nhau nhưng đều có một yêu cầu giống nhau. Trước khi tuyển cần qui định rõ các chuẩn mực:
Học vấn: Chuẩn mực này nhằm xác định khả năng tiếp thu của người lao động. Thông thường người có trình độ học vấn cao hơn thì khả năng tiếp thu cao hơn.
Sức khoẻ: Là các tiêu chuẩn cụ thể về sức khoẻ như: chiều cao, cân nặng, tình hình bệnh tật, thể trạng và các yêu cầu riêng theo nghề…
Nghề nghiệp: Chuẩn mực này gồm trình độ tay nghề và thâm niên nghề nghiệp…
Phẩm chất đạo đức: Đây là một chuẩn mực xác định rõ nhân thân của người lao động có phẩm chất đạo đức tốt, khi găp những khó khăn trong công việc đều vững vàngtìm cách vượt qua, họ có ý thức kỷ luật tốt, có trách nhiệm cộng đồng cao.
2.2. Quy trình tuyển chọn lao động xuất khẩu
Gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn chuẩn bị: là giai đoạn mà các doanh nghịêp XKLĐ chuẩn bị về nguồn lao động dự tuyển, về vật tư, bến bãi, thiết bị, máy móc… phục vụ cho công tác tuyển chọn. Chuẩn bị bảng mô tả công việc gồm các mẫu phỏng vấn, trắc nghiệm, dựa trên yêu cầu của các đối tác do đó sẽ tuyển chọn đảm bảo yêu cầu.
Thông tin công khai các tiêu chuẩn cụ thể trên các phương tiện truyền thông.
Giai đoạn chính thức: gồm 5 bước: Khi công ty có hợp đồng về việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài công ty sẽ thông báo tuyển lao động về cho các địa phương biết để kịp thời thông báo cho người lao động.
Qua các bước tuyển chọn lao động để công ty chọn được người phù hợp với yêu cầu của chủ sử dụng lao động bên nước ngoài. Tuỳ từng thị trường yêu cầu, tuỳ lao động giản đơn hay lao động có kỹ thuật, trình độ cao mà họ chọn hình thức tuyển phù hợp. Ban đầu công ty tuyển trực tiếp người lao động đáp ứng được yêu cầu,sau đó chủ sử dụng tuyển gián tiếp qua form được fax qua, rồi trực tiếp phỏng vấn ở lần tuyển 2
2.3. Phương pháp tuyển chọn
Tuỳ theo từng nhu cầu sử dụng lao động mà có phương pháp tuyển chọn nhằm tuyển chọn đúng, tuyển chọn được nhiều và thuận tiện cho người lao động. Có nhiều hình thức tuyển chọn, mỗi hình thức có các ưu nhược điểm khác nhau, trong đó có các hình thức chủ yếu sau:
+ Tuyển qua các TTDVVL thuộc Sở LĐ-TB&XH hoặc các tổ chức đoàn thể CTXH ( LĐLĐ, Hội nông dân, Hội PN, Đoàn TNCSHCM…) tại các địa phương. Đây là hình thức được sử dụng chủ yếu trong giai đoạn đầu
+ Tuyển trực tiếp tại các địa phương thông qua chính quyền cấp xã, phường.
+ Tuyển trực tiếp tại công ty
+ Tuyển tại nơi học, làm việc của người lao động.
Các doanh nghiệp phải trực tiếp tuyển người lao động đi làm việc nước ngoài phù hợp với yêu cầu của chủ sử dụng lao động, không được uỷ quyền qua trung gian, môi giới, không được thu phí tuyển chọn của người lao động theo quy định của nhà nước.
3. Đào tạo và giáo dục định hướng lao động xuất khẩu.
Đào tạo lao động xuất khẩu là quá trình học tập làm cho người lao động có thể thực hiện được những chức năng, nhiệm vụ có hiệu quả với công việccủa họ sẽ đảm nhiệm khi đi làm vịêc ở nước ngoài. Đây là công tác vô cùng quan trọng để tạo nguồn cho hạot động xuất khẩu lao động.
3.1. Nội dung đào tạo.
Quá trình đào tạo này thực chất tạo ra nguồn lao động có tay nghề, có khả năng ngoại ngữ, có khả năng giao tiếp thích ứng với điều kiện sống và điều kiện làm việc biến đổi, có kỷ luật, có tác phong công nghiệp… đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Việc đào tạo người lao động có kỹ thuật, có kỷ luật, có ngoại ngữ là một quá trình lâu dài và cần thiết phải có sự tham gia của các ngành, các cấp đặc biệt là ngành dạy nghề và được tiến hành đồng bộ. Do đó quá trình đào tạo gồm hai giai đoạn: Chương trình dài hạn và chương trình ngắn hạn.
a. Quá trình đào tạo dài hạn: Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về cả đầu tư cả cơ sở vật chất và chất lượng đào tạo trong công tác