Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế.
110 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, cho đến nay nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong đó không thể không kể đến những thay đổi tích cực từ việc đổi mới, nâng cao hoạt động của các doanh nghiệp. Bên cạnh những hoạt động cho thuê, mua bán, sát nhập doanh nghiệp thì cổ phần hóa là hoạt động diễn ra nhiều nhất và thu hút được sự quan tâm đông đảo của nhiều đối tượng.
Trong qua trình diễn ra các hoạt động nói trên, có thể thấy nổi lên một vấn đề chung nhất có tầm quan trọng đặc biệt đó là xác định giá trị doanh nghiệp, bởi lẽ bất kỳ quyết định nào liên quan đến các hoạt động nói trên cũng sẽ phải dựa trên cơ sở của giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp là một trong những căn cứ quan trọng nhất để các bên hữu quan và Chính phủ xem xét, đưa ra các quyết định cuối cùng liên quan đến sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp, của từng ngành, từng lĩnh vực và của cả nền kinh tế.
Công tác định giá ở nước ta mặc dù đã diễn ra từ rất lâu (đầu những năm 90) nhưng gần đây mới thu hút được sự quan tâm của mọi người, nhất là trong thời điểm đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Mặc dù chúng ta có rất nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện công tác định giá thông qua hàng loạt những thay đổi từ phía Nhà nước nhưng thực tế cho thấy công tác này vẫn đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Cơ chế tổ chức định giá chưa chặt chẽ, giá trị của doanh nghiệp được xác định chưa mang tính khách quan, thiếu chính xác và tốn thời gian, chi phí. Do vậy mà công tác định giá trong thời gian qua được đánh giá là chưa hiệu quả.
Định giá doanh nghiệp có một tầm quan trọng rất lớn đối với toàn bộ nền kinh tế và do vậy cần có những giải pháp hoàn chỉnh và khoa học nhất để làm sao nâng cao được hiệu quả của công tác này sẽ giúp thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới và cơ cấu lại nền kinh tế, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam khi là một thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO.
Ngay từ khi mới tham gia vào hoạt động định giá, công ty Cổ phần Kiểm toán và Định giá Việt Nam, nay là công ty Trách nhiệm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã luôn chú trọng đến việc mở rộng và hoàn thiện chất lượng công tác định giá của mình nhằm bắt nhịp và đáp ứng tốt nhất nhu cầu định giá trong bối cảnh hội nhập. Do đó, công ty đã trở thành một trong những tổ chức định giá hàng đầu và có uy tín nhất tại Việt Nam hiện nay. Vì vậy, sau khi thực tập tại đây, với mục đích tìm hiểu thực tế về hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty và những tồn tại của nó nhằm tìm ra giải pháp khắc phục, thúc đẩy hơn nữa hoạt động này, tôi đã chọn để tài “Hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại Công ty Trách nhiẹm hữu hạn Kiểm toán và Định giá Việt Nam – VAE” để làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở tìm hiểu về thực trạng hoạt động định giá tại VAE , trước hết tôi muốn đi sâu nghiên cứu những lý luận chung nhất về định giá, tiếp đến là phân tích thực trạng công tác định giá hiện nay và thứ ba là trong giới hạn hiểu biết của mình tôi đưa ra những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là hoạt động định giá tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là những doanh nghiệp được định giá bởi công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam trong những năm từ 2005 trở lại đây.
Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các phương pháp tổng hợp như: tập hợp, nghiên cứu tài liệu sau đó chọn lọc, phân tích, đánh giá thông tin dữ liệu trên cơ sở các số liệu thống kê thu thập được từ Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Bố cục của đề tài:
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về doanh nghiệp và định giá doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty TNHH Kiểm tóan và Định giá Việt Nam.
Chương III: Giải pháp hoàn thiện hoạt động định giá doanh nghiệp tại công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS Lê Đức Lữ cùng toàn thể các anh, chị nhân viên phòng Nghiệp vụ I, công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam đã tạo điều kiện tốt nhất cho em hoàn thành báo cáo thực tập của mình.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ DOANH NGHIỆP
1.1 Doanh nghiệp và các đặc điểm của doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thuật ngữ trong kinh doanh dùng để chỉ các tổ chức kinh tế, cá nhân nhằm phân biệt nó với các hình thức kinh doanh có quy mô quá nhỏ.
Một tổ chức kinh tế chỉ được coi là doanh nghiệp nếu nó được sự thừa nhận về mặt pháp lý trên một số tiêu chuẩn nào đó.
Các tiêu chuẩn ở đây có thể là mức vốn tối thiểu (vốn pháp định), mục tiêu hoạt động, ngành nghề, địa điểm, quyền lợi, chủ sở hữu, nhiệm vụ... Vậy:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (theo luật doanh nghiệp 2005).
1.1.2 Đặc điểm của doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một thực thể kinh tế và cần được coi là một loại hàng hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một nhu cầu tất yếu và đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều đối tượng khác nhau. Giá trị doanh nghiệp cần được xác định một cách hợp lý để đảm bảo được quyền lợi của các bên tham gia trong các hoạt động có liên quan đến doanh nghiệp. Trước khi xem xét đến giá trị doanh nghiệp, chúng ta cũng cần làm rõ những đặc điểm của doanh nghiệp như sau:
a) Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế
Sự tồn tại của doanh nghiệp luôn được đặt trong mối quan hệ chung với các phần tử khác của nền kinh tế. Sự tồn tại đó không chỉ được quyết định bởi các mối quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn bởi các mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài như: khách hàng, nhà cung cấp, tổ chức tài chính, pháp luật…Sự hoạt động của doanh nghiệp thực chất là sự thích ứng của nó với môi trường hoạt động. Do vậy khi nhìn nhận doanh nghiệp cần thấy được vị trí của nó trong nền kinh tế và quan trọng hơn là phải đánh giá được nó về mặt tổ chức cũng như sự thích ứng của nó với môi trường.
b) Doanh nghiệp là một tổ chức, một thực thể hoặt động chứ không phải là các tài sản rời rạc được tập hợp vào với nhau
Doanh nghiệp không phải là một kho hàng, doanh nghiệp không đơn giản là tập hợp của những tài sản vô tri vô giác, giá trị sử dụng của chúng bị giảm dần theo thời gian. Khi hoạt động, các tài sản trong doanh nghiệp gắn kết lại với nhau để tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp bị giải thể hay phá sản, những tài sản ấy mới được coi là những tài sản đơn lẻ, rời rạc, người ta có thể đem bán nó như một loại hàng hóa thông thường với mức giá thấp hơn rất nhiều giá trị thực của nó. Do vậy, giá trị doanh nghiệp là một khái niệm chỉ được dùng cho những doanh nghiệp đang hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
c) Doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt
Doanh nghiệp là một tổ chức được thành lập ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh chứ không phải là đối tượng để bán, tuy vậy giống như các hàng hoá thông thường khác, doanh nghiệp cũng là đối tượng của các giao dịch: mua bán, hợp nhất, chia nhỏ,… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với loại hàng hoá này cũng không nằm ngoài sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Nhưng doanh nghiệp là một loại hàng hóa đặc biệt, bởi nó là một hệ thống phức tạp của nhiều yếu tố cầu thành, ngoài việc được tạo nên bởi các tài sản hữu hình còn có các tài sản vô hình như: lợi thế thương mại, thương hiệu…Hơn nữa, bản thân các yếu tố tạo nên giá trị của doanh nghiệp luôn có sự thay đổi, luôn só sự tăng lên hay giảm đi, có sự ra đời hay biến mất, chính vì vậy giá trị của một doanh nghiệp cũng thay đổi theo thời gian và giá trị doanh nghiệp là một khái niệm động.
d) Việc thành lập hay mua bán lại doanh nghiệp thực chất là nhằm tìm kiếm thu nhập từ quyền sở hữu đối với doanh nghiệp đó
Con người muốn sở hữu doanh nghiệp là vì lợi nhuận. Việc sở hữu các tài sản cố định tài sản lưu động hay sở hữu một bộ máy kinh doanh, chỉ là cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu lợi nhuận mà thôi. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai.
1.2 Định giá doanh nghiệp
1.2.1 Khái niệm về định giá doanh nghiệp
Giá trị (value) là một khái niệm kinh tế có liên quan đến giá cả, chủ yếu do người mua và người bán xác định. Giá trị là mức giá dự tính sẽ phải trả đối với hàng hoá hoặc dịch vụ tại một thời điểm nhất định.
Giá trị của doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền của các khỏan thu nhập mà doanh nghiệp mang lại cho các nhà đẩu tư trong suốt quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Để xác định được giá trị doanh nghiệp, có thể tiếp cận theo hai cách:
Tiếp cận trực tiếp: Trực tiếp đánh giá các tài sản của doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản hữu hình, tài sản vô hình và định lượng giá trị các yếu tố về tổ chức, danh tiếng, thị phần của doanh nghiệp.
Tiếp cận gián tiếp: Đánh giá doanh nghiệp thông qua việc lượng hóa các khoản thu nhập kỳ vọng mà doanh nghiệp có thể mang lại cho nhà đầu tư trong suốt thời gian hoạt động còn lại của doanh nghiệp.
Với hai cách tiếp cận như vậy, trên thế giới hiện nay có nhiều phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp khác nhau (sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau). Tuy nhiên kết quả xác định giá trị doanh nghiệp thường có sự chênh lệch lớn thậm chí ngay cả khi sử dụng cùng một phương pháp vì kết quả đó phụ thuộc rất lớn vào độ chính xác của các tham số tính toán. Do vậy mỗi phương pháp đưa ra đều có những thích ứng đối với từng hoàn cảnh cụ thể của mỗi doanh nghiệp và tẩm nhìn của nhà đầu tư. Không thể có một phương pháp chung phù hợp cho mọi doanh nghiệp nên việc lựa chọn phương pháp nào đó để áp dụng thống nhất cho mọi doanh nghiệp là điều khó thực hiện và sẽ nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Định giá là một môn khoa học có tính nghệ thuật ước lượng cao chứ không hẳn là một khoa học chính xác. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của nhà thẩm định, điều quan trọng là quá trình định giá phải thực hiện một cách thống nhất và kết quả định giá sẽ được sử dụng một cách hữu ích nhất.
1.2.2 Các căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp là sự ước tính với độ tin cậy cao nhất các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có thể tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cơ sở cho các hoạt động giao dịch thông thường của thị trường.
Giá trị thị trường.
Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường vào thời điểm thẩm định giá, giữa một bên là người mua sẵn sàng mua và một bên là người bán sẵn sàng bán, trong một giao dịch mua bán khách quan và độc lập, trong điều kiện thương mại bình thường:
+ “Giá trị thị trường của một tài sản là mức giá ước tính sẽ được mua bán trên thị trường... ” là số tiền ước tính để tài sản có thể được mua, bán trên thị trường trong điều kiện thương mại bình thường mà sự mua bán đó thoả mãn những điều kiện của thị trường tại thời điểm thẩm định giá.
+ “vào thời điểm thẩm định giá...” là ngày, tháng, năm cụ thể khi tiến hành thẩm định giá, được gắn với những yếu tố về cung, cầu, thị hiếu và sức mua trên thị trường khi thực hiện thẩm định giá trị tài sản.
+ “giữa một bên là người mua sẵn sàng mua...” là người đang có khả năng thanh toán và có nhu cầu mua tài sản được xác định giá trị thị trường.
+ “và một bên là người bán sẵn sàng bán...” là người bán đang có quyền sở hữu tài sản (trừ đất), có quyền sử dụng đất có nhu cầu muốn bán tài sản với mức giá tốt nhất có thể được trên thị trường.
+ “Điều kiện thương mại bình thường” là việc mua bán được tiến hành khi các yếu tố cung, cầu, giá cả, sức mua không xảy ra những đột biến do chịu tác động của thiên tai, địch họa; nền kinh tế không bị suy thoái hoặc phát triển quá nóng…; thông tin về cung, cầu, giá cả tài sản được thể hiện công khai trên thị trường.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá hình thành trên thị trường công khai và cạnh tranh. Thị trường này có thể là thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế, có thể bao gồm nhiều người mua, người bán hoặc bao gồm một số lượng hạn chế người mua, người bán.
Giá trị thị trường thể hiện mức giá ước tính mà trên cơ sở đó, bên bán và bên mua thoả thuận tại một thời điểm sau khi cả hai bên đã khảo sát, cân nhắc đầy đủ các cơ hội và lựa chọn tốt nhất cho mình từ các thông tin trên thị trường trước khi đưa ra quyết định mua hoặc quyết định bán một cách hoàn toàn tự nguyện, không nhiệt tình mua hoặc nhiệt tình bán quá mức.
Giá trị phi thị trường
Giá trị phi thị trường là số tiền ước tính của một tài sản dựa trên việc đánh giá yếu tố chủ quan của giá trị nhiều hơn là dựa vào khả năng có thể mua bán tài sản trên thị trường.
Cơ sở của việc đưa ra khái niệm giá trị phi thị trường cũng xuất phát trực tiếp từ khái niệm giá trị tài sản: là biểu hiện bằng tiền về những lợi ích mà tài sản mang lại cho chủ thể nào đó tại một thời điểm nhất định.
Sau đây một số khái niệm giá trị phi thị trường thường dùng:
- Giá trị còn lại (salvage value): là giá trị của tài sản (bao gồm cả đất đai) không còn được tiếp tục sửa chữa hay sử dụng nữa. Giá trị này có thể coi như giá trị ròng của chi phí dỡ bỏ. Trong mọi trường hợp, khi định giá tài sản cần xác định rõ những bộ phận dỡ bỏ và những bộ phận còn lại của tài sản.
- Giá trị tài sản bắt buộc phải bán (forcedsale value): là tổng số tiền hợp lý có thể thu về từ bán tài sản trong phạm vị thời gian quá ngắn so với thời gian trung bình cần có để giao dịch mua bán theo giá trị thị trường. Tại một số nước, giá trị tài sản bắt buộc phải bán có thể liên quan đến tình huống người bán tài sản chưa sẵn sàng bán và người mua tài sản biết rõ việc chưa sẵn sàng bán đó.
- Giá trị đặc biệt (special value): là khái niệm có liên quan đến những yếu tố đặc biệt có thể làm tăng giá trị tài sản lên vượt quá giá trị thị trường. Giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi một tài sản này có thể gắn liền với một tài sản khác về mặt kỹ thuật hoặc kinh tế mà sự liên kết đó chỉ thu hút mối quan tâm đặc biệt của một số ít khách hàng mà không thu hút sự quan tâm của nhiều người. Các yếu tố của giá trị đặc biệt có thể nảy sinh khi xem xét yếu tố của giá trị tài sản đang quan tâm hoặc giá trị đầu tư. Thẩm định viên phải phân biệt rõ ràng những thông số và nguyên nhân để vận dụng các khái niệm giá trị thị trường nói trên thay vì sử dụng khái niệm giá trị thị trường.
- Giá trị có thể bảo hiểm (insurable value): là giá trị của tài sản quy định trong hợp đồng bảo hiểm.
- Giá trị có thể tính thuế (taxable value): là giá trị trong phạm vi luật pháp liên quan đến việc thuê mướn hoặc thu thuế tài sản. Mặc dù một số văn bản pháp quy trích
- Giá trị đầu tư (investment value): là giá trị của một tài sản đối với một số nhà đầu tư áp dụng cho một dự án đầu tư nhất định. Khái niệm này liên quan đến những tài sản riêng biệt với những nhà đầu tư riêng biệt. Không nên nhầm lẫn giữa giá trị đầu tư và giá trị thị trường. Giá trị đầu tư của một tài sản có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thị trường của tài sản đó. Tuy nhiên giá trị thị trường có thể phản ánh một số đánh giá cá nhân về giá trị đầu tư. Giá trị đầu tư có liên quan đến giá trị đặc biệt
- Giá trị đang sử dụng (Value in use): là giá trị các tài sản khi nói đang được một người cụ thể sử dụng cho một mục đích nhất định. Vì vậy, tài sản đó không liên quan đến thị trường. Loại giá trị này đóng góp vào một doanh nghiệp với tư cách là một bộ phận của tài sản doanh nghiệp, không tính đến giá trị sử dụng tối ưu và tốt nhất của tài sản cũng như số tiền mà tài sản đó mang lại khi nó được mang ra bán. Xét trên giác độ kế toán, giá trị đang sử dụng là giá trị hiện tại của luồng tiền mặt ước tính có thể mang lại trong tương lai kể từ khi bắt đầu sử dụng tài sản đến khi thanh lý tài sản.
Giá trị doanh nghiệp đang hoạt động (going concern): là giá trị toàn bộ của một doanh nghiệp. Khái niệm này liên quan đến định giá tài sản một doanh nghiệp đang hoạt động mà mỗi bộ phận tài sản cấu thành nên doanh nghiệp đó không thể tách rời và cũng không thể thẩm định trên cơ sở giá trị thị trường.
1.2.3 Các nhân tố tác động tới giá trị doanh nghiệp
Các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh
a) Môi trường kinh doanh tổng quát:
- Môi trường kinh tế: Bối cảnh kinh tế được nhìn nhận thông qua hàng loạt các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số giá cả, tỷ giá ngoại tệ, tỷ suất đầu tư,…Mặc dù môi trường kinh tế mang tính chất như yếu tố khách quan nhưng ảnh hưởng của chúng tới giá trị doanh nghiệp lại là sự tác động trực tiếp, mỗi sự thay đổi nhỏ của yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự đánh giá về doanh nghiệp. Ví dụ: Chỉ số giá chứng khoán phản ánh đúng quan hệ cung cầu, đồng tiền ổn định, tỷ giá và lãi xuất có tính kích thích đầu tư sẽ trở thành cơ hội tốt cho doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất. Ngược lại, sự suy thoái kinh tế, lạm phát phi mã là biểu hiện môi trường tồn tại của doanh nghiệp đang bị lung lay tận gốc.
- Môi trường chính trị: Sản xuất kinh doanh chỉ có thể tồn tại và phát triển trong môi trường có sự ổn định về chính trị nhất định. Chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, sự lộng hành của Mafia và những yếu tố trật tự an toàn xã hội khác bao giờ cũng tác động xấu đến mọi mặt đời sống xã hội chứ không riêng gì với sản xuất kinh doanh.
Các yếu tố của môi trường chính trị có sự gắn bó chặt chẽ như:
+ Tính đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và chi tiết của hệ thống pháp luật.
+ Quan điểm của nhà nước đối với sản xuất kinh doanh được thể hiện thông qua các văn bản pháp quy như: luật cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,…
- Môi trường văn hoá xã hội: Môi trường văn hoá được đặc trưng bởi những quan niệm, những hệ tư tưởng của cộng đồng về lối sống, đạo đức. Thể hiện trong quan niệm về “chân, thiện, mỹ” quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội, thể hiện trong tập quán sinh hoạt và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi, mật độ, …..
- Môi trường khoa học công nghệ: Sự tác động của kỹ thuật - công nghệ đang làm thay đổi một cách căn bản các điều kiện về quy trình công nghệ và phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng, phong phú, hàm lượng tri thức có khuynh hướng chiếm ưu thế tuyệt đối trong giá bán sản phẩm.
Sự nhảy vọt của nền văn minh nhân loại không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Vì vậy, khi đánh giá về doanh nghiệp phải chỉ ra được mức độ tác động của môi trường này đến sản xuất kinh doanh và khả năng thích ứng của doanh nghiệp trước những bước phát triển mới của khoa học- công nghệ.
b) Môi trường đặc thù
- Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng: Thị trường đối với doanh nghiệp thể hiện bằng yếu tố khách hàng, thông thường khách hàng sẽ chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng cũng có trường hợp khách hàng lại bị lệ thuộc vào khả năng cung cấp của doanh nghiệp. Do vậy muốn đánh giá đúng khả năng phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cần phải xác định tính chất, mức độ bền vững và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ với khách hàng và đặc biệt là thị phần hiện tại, thị phần tương lai, doanh số bán ra và tốc độ tiến triển của các chỉ tiêu đó qua các chu kỳ kinh doanh.
- Quan hệ doanh nghiệp với nhà cung cấp: Doanh nghiệp thường phải trông đợi sự cung cấp từ phía bên ngoài các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, các dịch vụ điện, nước,… Tính ổn định đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo đúng chỉ tiêu đã đề ra.
Để đánh giá khả năng đáp ứng các yếu tố đầu vào đảm bảo cho sản xuất kinh doanh có thể ổn định phải xem xét đến: Sự phong phú của các nguồn cung cấp, số lượng, chủng loại các nguyên liệu có thể thay thế được cho nhau, khả năng đáp ứng lâu dài, tính kịp thời, chất lượng và giá cả