Đề tài Hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội

Hiện nay toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang là xu hướng phát triển chung của toàn thế giới. Việt Nam với những bước đi vững chắc cũng đang từng bước hội nhập: Gia nhập ASEAN (1995), APEC (1997), kí kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, hoàn thành các nghĩa vụ tham gia AFFTA (2006), gia nhập WTO (2007) Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế đóng vai trò mũi nhọn trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng những kỹ thuật, công nghệ tiến bộ từ các nước phát triển và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh những khuyến khích xuất khẩu thì nhập khẩu cũng hết sức được quan tâm, nó đóng vai trò trọng tâm cho sự phát triển thương mại nội địa, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị có vai trò đặc biệt cung cấp tư liệu sản xuất, xây dựng, tạo sơ sở hạ tầng để tăng cường sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đồng thời chính nó kết hợp với xuất khẩu cải thiện đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó việc hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Năm 2008 là năm kinh tế thế giới có nhiều biến động : sự phá sản của hai ngân hàng lớn nhất nước Mĩ ảnh hưởng tới nên kinh tế toàn cầu. Sự sụt giá tiền tệ, mất giá chứng khoán, giá dầu tăng kỷ lục rồi lại tụt dốc thảm hại. Bên cạnh đó thiên tại dồn dập khiến giá hàng hóa thực phẩm leo thang khiến cho nên kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại ở mức 6.23%, trong khi xuất khẩu là điểm sáng trong bức tranh nền kinh tế thì nhập siêu lại đáng lo ngại với kim ngạch khoảng 80,4 tỷ USD tăng 28,3% so với năm 2007. Trong các mặt hàng nhập khẩu chủ lực phải kể đến mặt hàng máy móc thiết bị đạt khoảng 13,7 tỷ USD. Trong thời gian thực tập ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP ) em nhận thấy rằng ở công ty hoạt động chủ yếu là nhập khẩu, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị chiểm tỷ trọng lớn nhất và luôn có những thay đổi đáng mừng. Trước những biến động thăng trầm của kinh tế thế giới, hoạt động của công ty không phải lúc nào cũng ổn định, bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại những hạn chế mà công ty đã và đang nỗ lực khắc phục. Do vậy, qua thời gian thực tập ở công ty em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp.

doc101 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ĐỘC LẬP - TỰ DO - HẠNH PHÚC ------- LỜI CAM ĐOAN Kính gửi : - Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân - Khoa Thương Mại và Kinh tế Quốc tế Tên em là : Lê Phương Hà Lớp : Thương Mại 47C Khoá : 47 Hệ : Chính Quy Mã Sinh viên : CQ 470715 Trong thời gian thực tập theo quy định của nhà trường, em thực tập tại Phòng XNK 8- Công ty cổ phần XNK tạp phẩm Hà Nội ( TOCONTAP). Em đã chọn đề tài:” Hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội” cho luận văn tốt nghiệp của mình. Em xin cam đoan luận văn này hoàn toàn do em tìm hiểu, nghiên cứu và viết trong quá trình thực tập tại Công ty, không sao chép chuyên đề, luận văn các khoá trước. Nếu vi phạm, em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Sinh viên Lê Phương Hà MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng 1: Những mặt hàng xuất khẩu chủ lực 35 Bảng 2: Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực của TOCONTAP 36 Bảng 3: Kim ngạch XNK của công ty từ năm 2005 đến năm 2008 40 Bảng 4: So sánh kim ngạch XNK của năm sau so với năm trước 40 Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng chủ lực của TOCONTAP từ năm 2006 đến 2008. 43 Bảng 6: Kim ngạch nhập khẩu mặt hàng chủ lực của TOCONTAP từ năm 2005 đến 2008. 45 Bảng 7: Kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường trọng điểm 46 Bảng 8: Kết quả tài chính của công ty trong các năm 2005-2008 47 Bảng 9: Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị từ năm 2005 đến năm 2008 49 Bảng 10: Các chỉ tiêu về nhập khẩu máy móc thiết bị từ năm 2006 đến năm 2008 53 Bảng 11: Bảng so sánh hiệu quả kinh doanh với hiệu quả nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty 53 Bảng 12: Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị qua các năm 54 Bảng 13: Thị trường nhập khẩu chính máy móc thiết bị của công ty 55 Bảng 14: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu theo từng thị trường 56 Bảng 15: Thị trường tiêu thụ máy móc thiết bị của TOCONTAP 58 Biểu đồ 1: Kim ngạch XNK của TOCONTAP từ năm 2005 đến năm 2008 40 Biểu đồ 2: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của TOCONTAP từ năm 2005 đến năm 2008 41 Biểu đồ 3: Tỷ trọng KNNK máy móc thiết bị của công ty từ năm 2005 đến năm 2008 50 Biểu đồ 4: Tỷ trọng KNNK máy móc thiết bị của công ty từ năm 2005 đến năm 2008 50 Biểu đồ 5: Cơ cấu thị trường nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty năm 2007 và năm 2008 56 LỜI MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Hiện nay toàn cầu hóa, hiện đại hóa đang là xu hướng phát triển chung của toàn thế giới. Việt Nam với những bước đi vững chắc cũng đang từng bước hội nhập: Gia nhập ASEAN (1995), APEC (1997), kí kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kì, hoàn thành các nghĩa vụ tham gia AFFTA (2006), gia nhập WTO (2007)…Trong bối cảnh đó thương mại quốc tế đóng vai trò mũi nhọn trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng những kỹ thuật, công nghệ tiến bộ từ các nước phát triển và tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Bên cạnh những khuyến khích xuất khẩu thì nhập khẩu cũng hết sức được quan tâm, nó đóng vai trò trọng tâm cho sự phát triển thương mại nội địa, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị có vai trò đặc biệt cung cấp tư liệu sản xuất, xây dựng, tạo sơ sở hạ tầng…để tăng cường sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, đồng thời chính nó kết hợp với xuất khẩu cải thiện đời sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó việc hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở các doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng. Năm 2008 là năm kinh tế thế giới có nhiều biến động : sự phá sản của hai ngân hàng lớn nhất nước Mĩ ảnh hưởng tới nên kinh tế toàn cầu. Sự sụt giá tiền tệ, mất giá chứng khoán, giá dầu tăng kỷ lục rồi lại tụt dốc thảm hại. Bên cạnh đó thiên tại dồn dập khiến giá hàng hóa thực phẩm leo thang khiến cho nên kinh tế nước ta tăng trưởng chậm lại ở mức 6.23%, trong khi xuất khẩu là điểm sáng trong bức tranh nền kinh tế thì nhập siêu lại đáng lo ngại với kim ngạch khoảng 80,4 tỷ USD tăng 28,3% so với năm 2007. Trong các mặt hàng nhập khẩu chủ lực phải kể đến mặt hàng máy móc thiết bị đạt khoảng 13,7 tỷ USD. Trong thời gian thực tập ở công ty cổ phần xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP ) em nhận thấy rằng ở công ty hoạt động chủ yếu là nhập khẩu, trong đó nhập khẩu máy móc thiết bị chiểm tỷ trọng lớn nhất và luôn có những thay đổi đáng mừng. Trước những biến động thăng trầm của kinh tế thế giới, hoạt động của công ty không phải lúc nào cũng ổn định, bên cạnh những thành tựu vẫn còn tồn tại những hạn chế mà công ty đã và đang nỗ lực khắc phục. Do vậy, qua thời gian thực tập ở công ty em đã chọn đề tài: “Hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội” để làm khóa luận tốt nghiệp. Mục đích của đề tài Cung cấp những hiểu biết sâu hơn vềlý luận nhập khẩu nói chung và nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty TOCONTAP nói riêng. Khái quát và đi vào phân tích thực trạng nhập khẩu máy móc thiết bị ở công ty TOCONTAP và cơ hôi kinh doanh của công ty trên thị trường. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Trong quá trình thực tập ở phòng xuất nhập khẩu 8 ở công ty TOCONTAP em đã nỗ lực tìm hiểu lý luận thực tiễn nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty Phạm vi nghiên cứu: Qui trình nhập khẩu và những hoạt động xung quanh nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty từ năm 2005 đến năm 2008. Kết cấu của luận văn Luận văn của em gồm 3 phần chính: Chương 1: Những lí luận chung về nhập khẩu máy móc thiết bị của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng nhập khẩu máy móc thiết bị của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội(TOCONTAP ) Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện nhập khẩu máy móc và thiết bị của công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm Hà Nội (TOCONTAP ). CHƯƠNG 1 NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHẬP KHẨU MÁY MÓC THIẾT BỊ CỦA DOANH NGHIỆP I. Khái niệm nhập khẩu Khái niệm Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thưng mại quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống trong nước. Có thể định nghĩa nhập khẩu hàng hóa là quá trình mua hàng hóa dịch vụ của một tổ chức kinh tế hay doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở quốc gia này với quốc gia khác theo nguyên tắc thị trường quốc tể để phục vụ cho sản xuất trong nươc hay tái xuất khẩu tìm kiểm lợi nhuận. Nhập khẩu để bổ sung hàng hóa mà trong nước không sản xuất được, hoặc sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt hàng nhập khẩu bổ sung hoặc nhập khẩu thay thể nếu thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối của nền kinh tế quốc dân, trong đó cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất: Công cụ lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Với cách tác động đó, ngoại thương được coi như một phương pháp sản xuất gián tiếp. Với mỗi quốc gia nhập khẩu luôn là một bộ phận quan trọng trong quá trình buôn bán quốc tế, nó thể hiện mối quan hệ giữa nền kinh tế quốc gia với kinh tế thế giới.Việt Nam trong nhiều năm gần đây tỷ trọng nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn, riêng năm 2008 mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc đại khủng hoảng kinh tế nhưng nhập siêu vẫn tăng đột biến khoảng 80,4 tỷ USD chủ yếu từ Trung Quốc chiếm gần 13 tỷ USD, trong đó máy móc thiết bị là một trong những mặt hàng chủ yếu để phục vụ cho nhiều ngành kinh tế. Năm 2009 vẫn là năm của khủng hoảng kinh tế nhưng với xu thế toàn cầu hóa thì khối lượng hoạt động ngoại thương ngày càng nhiều và điều chỉnh nhập khẩu hợp lý cân đối với xuất khẩu là bộ phận không thể thiếu để ổn định kinh tế giảm gánh nặng của khủng hoảng. Vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp Bên cạnh xuất khẩu thì nhập khẩu cũng đóng vai tròn quan trọng cho nền kinh tế quốc dân nói chung và cho doanh nghiệp nói riêng. Đối với nền kinh tế, nhập khẩu tạo điều kiển đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa đất nước; bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát triển kinh tế ổn định và cân đối; góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân; thúc đẩy xuất khẩu tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Đối với doanh nghiệp, vai trò nhập khẩu thể hiện những điểm sau: Nhập khẩu đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, góp phần gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp thương mại thông quan tổ chức tiêu thụ hàng hóa sau khi nhập khẩu, và góp phần cải thiện nâng cao khả năng sản xuất đối với doanh nghiệp sản xuất. Nhập khẩu góp phần giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường cung ứng và tiêu thụ sản phẩm. Nó cũng giúp doanh nghiệp hội nhập với nền kinh tế thế giới, học hỏi kinh nghiệm làm việc tiên tiến hiện đại, phong cách làm việc khoa học, và kiến thức nghiệp vụ xuất nhập khẩu trên thế giới. Nhập khẩu giúp doanh nghiệp tìm kiếm được bạn hàng tin cậy, lâu dài ổn định trên thế giới, góp phần tạo ra những liên minh kinh tế, những liên kết xuyên quốc gia có lợi cho doanh nghiệp Nhập khẩu những mặt hàng phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu góp phần thúc đẩy xuất khẩu, nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Sự cần thiết hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị đối với doanh nghiệp Nền kinh tế VN phát triển theo hướng phụ thuộc nguồn nguyên liệu nhập khẩu mang đậm nền kinh tế gia công lắp ráp. Hàng năm tỷ trọng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và đầu tư trong nước lên tới 80%. Sở dĩ như vậy là do các nguyên nhân sau: Quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế trên phạm vi toàn cầu là xu thế chung của tất cả các quốc gia, lực lượng sản xuất phát triển vượt qua qua ngoài phạm vi biên giới một quốc gia, sự phân công lao động quốc tê cả về bề rộng lẫn bề sâu. Việt Nam cũng đang trên đà hội nhập bằng nhiều cách, trong đó có cuộc cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Chính vì vậy, việc xây dựng các yếu tố cơ sở hạ tầng như: đường xá, cầu cống, nhà máy, các khu công nghiệp, các khu đô thị, khu dân cư là nền tảng vô cùng quan trọng. Theo lý thuyết lợi thế tương đối của D. Ricardo thì mỗi nước nên chuyên môn hóa vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối thì thương mại sẽ có lợi cho các bên. Nói các khác, một quốc gia sẽ có lợi khi sản xuất và xuất khảu những mặt hàng mà quốc gia đó có thế sản xuất với hiệu quả cao hơn một cách tương đối hay giá cả thấp hơn một cách tương đối so với quốc gia kia. Việt Nam nước nông nghiệp có thế mạnh về gạo, tài nguyên và những mỏ than, mỏ quặng do thiên nhiên hào phóng ban tặng. Hàng năm nước ta thu về những đồng ngoại tệ quí giá từ hoạt động xuất khẩu những mặt hàng này. Song bên cạnh đó những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao, tiên tiến hiện đại như: máy móc thiết bị, đồ điện tử, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho xuất khẩu việc sản xuất trong nước vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cả về chất và lượng. Do đó việc nhập khẩu những mặt hàng còn thiếu kia vừa đáp ứng nhu cầu trong nước, vừa tiết kiệm được chi phí, nguồn nhân lực, nhằm chuyên tâm vào sản xuất những mặt hàng thế mạnh. Đối với các doanh nghiệp kinh doanh ngoại thương thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị ngày càng cần hoàn thiện hơn bởi: - Nguồn lực trong nước khan hiếm không đủ cung cấp để thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư cho khu công nghiệp phục vụ cho quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa đất nước. Trong khi đó trên thế giới có rất nhiều nguồn cung với các mặt hàng phong phú về mẫu mã, chất lượng. Vấn đề đặt ra là các nhà nhập khẩu phải lựa chọn mặt hàng tin cậy, thị trường đầu hợp lý, giảm chi phí nhập khẩu, đạt hiệu quả kinh doanh cao. - Khi nhu cầu càng tăng thì tất yếu sẽ xuất hiện nhiều nhà cung cấp. Khi đó tất yếu sẽ nảy sinh sự cạnh tranh về giá cả, chất lượng. Và kết quả là các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ tìm cách hoàn thiện nhập khẩu máy móc thiết bị về thị trường đầu vào, đầu ra, qui trình nhập khẩ… để tăng chất lượng mặt hàng với giá thành hợp lý nhằm thu nhiều lợi nhuận nhất và nâng cao vị thế của mình trên thị trường. II. Các hình thức nhập khẩu 1. Nhập khẩu trực tiếp Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu độc lập hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh mà không qua tổ chức trung gian nào. Hình thức này cho phép người nhập khẩu có thể năm bắt được thị trường nhập khẩu và lợi nhuận không bị chia sẻ. Tuy nhiên đây khi tiến hành nhập khẩu dưới hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có nhiều kinh nghiệm, các cán bộ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu phải có kiến thức chuyên môn giỏi để có thể đàm phán và và tiến hành nghiệp vụ thông thạo hiểu quả cao. Đồng thời doanh nghiệp cũng phải chịu mọi chi phí rủi ro, tổn thất từ những thất bại, khó khăn của thương vụ. 2. Nhập khẩu liên doanh Nhập khẩu liên doanh là hoạt động nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kỹ thuật một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp( trong đó ít nhất một doanh nghiệp tự xuất khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch đề ra chủ trương biện pháp có liên quan đến hoạt động nhập khẩu, thúc đẩy hoạt động này phát triển theo hướng có lợi nhất cho cả hai bên cùng chia lãi và nếu lỗ thì phải chịu. Quyền hạn và trách nhiệm mỗi bên được chia theo tỷ lệ vốn góp. Các doanh nghiệp nhập khẩu dưới hình thức chỉ phải chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp. Doanh nghiệp nào đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch nhập khẩu. Khi đưa hàng về tiêu thụ thị chỉ được tính doanh số trên số hàng tính theo tỷ lệ vốn góp và chịu thuế doanh thu trên doanh số đó. Doanh nghiệp nhập khẩu liên doanh phải ký hai hợp đồng: một hợp đồng mua hàng với nước ngoài và một hợp đồng với doanh nghiệp khác. 3. Nhập khẩu ủy thác Là hình thức nhập khẩu gián tiếp thông qua trung gian thương mại. Bên nhờ ủy thác sẽ phải trả một khoản tiền cho bên nhận ủy thác dưới hình thức phí ủy thác, còn bên nhận ủy thác có trách nhiệm thực hiện đúng nội dung của hợp đồng ủy thác đã được kí kết giữa các bên. Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên cứu thị trường mà chỉ đóng vai trò đại diện cho bên ủy thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng, làm thủ tục nhập khẩu hàng cũng như thay mặt cho bên ủy thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn thất. Bên nhận ủy thác phải tự nghiên cứu thị trường, lựa chọn mặt hàng và chịu các chí phí liên quan. Bên nhận ủy thác cũng phải lập 2 hợp đồng: một hợp đồng mua bán hàng hóa với nước ngoài, và một hợp đồng nhận ủy thác với bên ủy thác 4. Nhập khẩu hàng đổi hàng - Nghiệp vụ hàng đổi hàng là một loại hình của buôn bán đổi lưu- phương thức trao đổi hàng hóa trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Trong nghiệp vụ này có thể hoặc không cần dùng đồng tiền thanh toán - Hàng hóa nhập có sự cân bằng về giá cả, mặt hàng, cân bằng về tổng giá trị hàng giao cho nhau, và cân bằng về điều kiện giao hàng. - Hợp đồng trong nghiệp vụ hàng đổi hàng có thể là một hợp đồng với hai danh mục hàng hóa, hoặc cũng có thể là hai hợp đồng, mỗi hợp đồng một danh mục hàng hóa với những điều khoản ràng buộc nhau khiến cho bên nào cũng vừa là người bán vừa là người mua. - Trong các hợp đồng này thường có điều kiện đảm bảo thực hiện đối lưu bằng cách dùng thư tín dụng, dùng ngân hàng, dùng một tài khoản đặc biệt ở ngân hàng. 5. Tạm nhập tái xuất - Đây là hình thức nhập khẩu mà nước nhập khẩu sẽ xuất khẩu trở lại nước ngoài hàng trước đây đã nhập khẩu chưa qua chế biến ở nước tái xuất. Trong hoạt động nhập khẩu luon có sự tham gia của ba nước: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, và nước tái xuất. - Người bán đồng thời là người mua, sau mỗi chuyến hàng đều có việc thanh toán bằng tiền. - Có nhiều loại: Hàng từ nước xuất khẩu được chở thẳng sang nước nhập khẩu. Hoặc hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất nhưng không làm thủ tục vào nước tái xuất mà được chở sang nước nhập khẩu. Hoặc hàng từ nước xuất khẩu được chở đến nước tái xuất, làm thủ tục nhập vào kho ngoại quan ở nước tái xuất, sau đó được xuất khẩu sang nước nhập khẩu. - Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất quy định phương thức tín dụng giáp lưng. Người tái xuất thường cố dàn xếp để trả chậm tiền hàng nhập và nhanh chóng thu tiền hàng xuất. Nhờ biện pháp đó mà người tái xuất thu được cả lợi tực về tiền hàng trong khoảng thời gian chênh lệch. - Kinh doanh tái xuất đòi hỏi nhạy bén tinh hình thị trường và giá cả, chính xác và chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán. III. Qui trình nhập khẩu của doanh nghiệp Nghiên cứu thị trường Nghiên cứu thị trường là quá trình đầu tiên của hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Không chỉ tiến hành nghiệp vụ ngoại thương mà làm bất cứ một công việc kinh doanh nào cũng cần tiến hành nghiên cứu thị trường, đây là bước nghiên cứu tiền khả thi để có thể đưa ra những phương án kinh doanh thích hợp. Nghiên cứu thị trường không chỉ là ở trong nước mà còn cả nước ngoài nữa. Nghiên cứu thị trường trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm tìm thị trường đầu ra, đối tác kinh doanh ở nước ngoài, và đối thủ cạnh tranh trong nuớc. Đối tác kinh doanh là các doanh nghiệp ở quốc gia khác tiến hành xuất khẩu cho doanh nghiệp nhập khẩu. Thị trường đầu ra là thị trường tiêu thụ cho những mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp. Thị trường này có thể ở trong quốc gia cũng có thể ở ngoài quốc gia. Đối thủ cạnh tranh trong nước là các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm hoặc tiến hành nhập khẩu các sản phẩm giống của công ty hay những sản phẩm mang tính thay thế. Để tiến hành nghiên cứu thị trường doanh nghiệp ngoại thương cần nghiên cứu các yếu tố: Nghiên cứu thị trường trong nước: Tổng cầu hàng hóa: lượng cầu, mặt hàng, chủng loại, yêu cầu về tính năng kỹ thuật của khách hàng. Qua nghiên cứu tổng cầu cần xác định yêu cầu của khách hàng hay chính là thị trường đầu ra của doanh nghiệp Tổng cung: là khả năng cung ứng, sản xuất hàng hóa đó trong nước, và khả năng nhập khẩu. Qua nghiên cứu tổng cung giúp doanh nghiệp xác định được thị trường xuất khẩu, hay đối tác kinh doanh của doanh nghiệp Giá cả: doanh nghiệp cần tiến hành nghiên cứu giá cả của hàng hóa đó trong nước và giá nhập khẩu. Qua đó có sự so sánh để thấy được lợi ích nhập khẩu. Sự cạnh tranh trên thị trường: Đòi hỏi doanh nghiệp phải xác định đối thủ cạnh tranh, cụ thể là các doanh nghiệp sản xuất hoặc nhập khẩu mặt hàng, hay mặt hàng thay thế mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường nước ngoài: Đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu thị trường thế giới, tìm hiểu xem thị trường nào có triển vọng nhất để có thể tiến hành nhập khẩu với những điều kiện tốt nhất, giảm chi phí nhập khẩu. Bên cạnh đó cũng cần nghiên cứu tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, phong tục tập quán nhập khẩu của quốc gia đó để phục vụ cho việc giao thương đạt kết quả cao. - Phương pháp để nghiên cứu thị trường là nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu hiện trường Phương pháp nghiên cứu tại bàn hay còn gọi là nghiên cứu văn phòng là các nghiên cứu thu thập thông tin qua các tài liệu như sách báo, tạp chí, tạp chí quảng cáo, các bản tin kinh tế, thông tin thị trường, tạp chí thương mại, niên giám thống kê, và cá loại tài liệu có liên quan đến mặt hàng nhập khảu của doanh nghiệp. Nghiên cứu tại bàn có thể tìm tài liệu ở bên ngoài doanh nghiệp cũng có thể tìm tài liệu bên trong doanh nghiệp. Nghiên cứu tại bàn cho cái nhìn khái quát về thị trường mặt hàng cần nghiên cứu. Đây là phương pháp tương đối dễ làm, tiến hành nhanh tốn ít chi phí, nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn, phải biết cách thu thập tài liệu, đánh giá và sử dụng tài liệu thu thập một cách đầy đủ và tin cậy. Tuy nhiên phương pháp này có hành chế là có độ trễ so với thực tế. Nghiên cứu hiện trường là phương pháp trực tiếp cử cán bộ đến tận nơi để nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua việc trực tiếp quan sát thu thập thông tin và số liệu ở đơn vị tiêu dùng, ở khách hàng hoặc đơn vị nguồn hàng bằng cách điều tra trọng điểm, điều tra chọn mẫu, .. cũng có thể thông qua việc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng ở kho hàng, quầy hàng, của hàng của bản thân doanh nghiệp. Nghiên cứu tại hiện trường có thể thu thập số liệu sống động thực tế, hiện đại. Tuy nhiên phương pháp này tốn kém và chi
Tài liệu liên quan