Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề kinh tế được người ta nhắc đến nhiều hơn và nó đã và đang ngày càng được quan tâm và chú trọng đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đồng thời nó cũng là nhân tố thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia ấy. Việt Nam cũng vậy, chúng ta đang ở giai đoạn đầu tiên của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý cuả nhà nước và đang từng bước khẳng định mình trong khu vực và với bạn bè quốc tế. Nhà nước đã và đang thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu buôn bán với nước ngoài tạo điều kiện để chúng ta có thể hoà mình vào xu hướng phát triển chung của toàn thế giới.
121 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1577 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình xuất khẩu hàng hoá tại công ty xuất nhập khẩu Hà Thiên – Galaxy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ưLời nói đầu
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề kinh tế được người ta nhắc đến nhiều hơn và nó đã và đang ngày càng được quan tâm và chú trọng đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đồng thời nó cũng là nhân tố thể hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia ấy. Việt Nam cũng vậy, chúng ta đang ở giai đoạn đầu tiên của nền kinh tế thị trường có sự điều tiết và quản lý cuả nhà nước và đang từng bước khẳng định mình trong khu vực và với bạn bè quốc tế. Nhà nước đã và đang thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế, giao lưu buôn bán với nước ngoài tạo điều kiện để chúng ta có thể hoà mình vào xu hướng phát triển chung của toàn thế giới.
Như vậy, khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới nó đã thực sự tác động một cách sâu sắc đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường thể hiên sự cạnh tranh hết sức gay gắt, chịu sự điều tiết của quy luật cung cầu, không chỉ đối với các doanh nghiệp trong nước mà còn giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Trong môi trường đó, để có thể tồn tại và phát triển các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp trong nước luôn phải tự hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh để đem lại hiệu quả cao nhất có thể và hiệu quả ấy chỉ có thể đo lường được thông qua chỉ tiêu quan trọng nhất là lợi nhuận đạt đưọc.
Ngay từ khi mở rộng quan hệ kinh tế giao lưu buôn bán với nước ngoài thì hoạt động xuất nhập khẩu (đặc biệt là hoạt động xuất khẩu hàng hoá ) của các công ty trong nước đã đem lại một phần không nhỏ vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân, ngoài ra nó còn đóng góp rất lớn vào sự phồn thịnh của đất nước. Do đó nhà nước đã không ngừng tạo điều kiện để cho hoạt động xuất nhập khẩu đạt hiệu quả cao và đặc biệt hơn đó là thông qua luật hải quan nhà nước có thể quản lý sâu sát hơn hoạt động xuất nhập khẩu của từng công ty. Gần đây, việc ra đời của luật hải quan mới làm cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu gặp không ít những hạn chế và nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, nhất là nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình xuất khẩu hàng hoá đem lại nguồn thu ngoại tệ tương đối lớn cho đất nước. Nhận thấy hoạt động kinh doanh xuất khẩu không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với mỗi đơn vị kinh doanh nói riêng mà còn đối với tiên trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước nói chung. Chính vì vậy, việc các công ty phải tự hoàn thiện quy trình xuất khẩu của nhằm mục đích trước mắt là phải thích ứng với quy định của luật hải quan, sau đó giải quyết yêu cầu cấp bách đặt ra với mỗi công ty là đảm bảo nâng cao hiệu quả và thực hiện việc kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
Qua nhận thức rút ra từ quá trình học tập như vậy, trong thời gian thực tập ở công ty xuất nhập khẩu Hà Thiên ( tên giao dịch đối ngoại bằng tiếng anh là: Galaxy ) thuộc Bộ giao thông vận tải, em đã tìm hiểu về quy trình hoạt động xuất nhập khẩu của công ty. Em thấy rằng, thực tế là công ty đã tự điều chỉnh, tự hoàn thiện để sớm thích ứng và thực hiện theo đúng quy định của luật hải quan do nhà nước ban hành, do đó công ty đã đạt được những hiệu quả nhất định tuy nhiên vẫn còn có nhiều hạn chế trong quá trình kinh doanh chưa đáp ứng được yêu cầu đạt ra một cách triệt để. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài” Hoàn thiện quy trình xuất khẩu hàng hoá tại công ty xuất nhập khẩu Hà Thiên – Galaxy” để nghiên cứu. Trong thời gian thực hiện mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do thời gian có hạn, kinh nghiệm chưa có nhiều, cơ sở lý luận chưa thật vững chắc nên bài viết còn có những khiếm khuyết nhất định. Em rất mong được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo về mặt lý luận, sự chỉ bảo của các cán bộ công ty trên cơ sở thực tế và sự đóng góp ý kiến của các bạn đọc để bài viết của em có giá trị hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của GS-PTS Đặng Đình Đào và các cán bộ công ty xuất nhập khẩu Hà Thiên đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Chương I
Tổng quan về xuất khẩu hàng hoá và quy trình xuất khẩu hàng hoá
I/ Khái quát về xuất khẩu hàng hoá
1/ Khái niệm về xuất khẩu
Xuất phát từ xu thế toàn cầu hoá của nền kinh tế người ta định nghĩa xuất khẩu như sau :
Xuất khẩu là hình thức hàng hoá được sản xuất ra ở quốc gia này nhưng không dùng ở trong nước mà đem tiêu thụ ở quốc gia khác. Xuất khẩu chính là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài.
Xuất khẩu không phải là hoạt động kinh doanh buôn bán riêng lẻ mà là hệ thông các quan hệ buôn bán được pháp luật của các quốc gia trên thế giới cho phép. Các quốc gia tham gia vào hoạt động mua bán này đều phải tuân thao các tập quán, thông lệ quốc tế. Đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng cho mục tiêu phát triển đất nước, phản ánh mối quan hệ xã hội và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay thì xuất khẩu là hoạt động tất yếu của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Các quốc gia có sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, nguồn tài nguyên, con người …do đó mỗi quốc gia sẽ có những thế mạnh, lợi thế riêng. Để tạo ra sự cân bằng trong quá trình sản xuất và tiêu dùng, các quốc gia thường tiến hành trao đổi hàng hóa dịch vụ với nhau. Tuy vậy, hoạt động xuất khẩu không chỉ diễn ra ở các nước có lợi thế mà còn diễn ra ngay cả ở các quốc gia không có bất kì một lợi thế nào. Những quốc gia này vẫn có thể thu được lợi ích không nhỏ khi tham gia xuất khẩu.
Theo David Ricardo : những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế hơn so với các nước khác trong việc sản xuất sản phẩm hàng hoá, thì họ có thể thu được lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng.
2/ Tầm quan trọng và nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá
2.1/ Tầm quan trọng của xuất khẩu hàng hoá
* Đối với quá trình phát triển kinh tế
- Xuất khẩu tạo ra nguồn vốn chủ yếu để nhập khẩu máy móc thiết bị, máy móc phục vụ mục tiêu kỹ thuật của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển :
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ. Đó là thành quả của cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiên đại. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa phù hợp với xu hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu với đất nước ta. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Một là xuất khẩu chỉ là việc tiêu thụ những sản phẩm dư thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu, chậm phát triển và do đó sẽ có tác động tiêu cực đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế và sản xuất. Bởi vì với nền kinh tế Việt Nam không thể trông chờ vào sự dư thừa của quá trình sản xuất hàng hóa trong nước.
Hai là xem thị trường và đặc biệt là thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này chính là xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới để tổ chức sản xuất. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này đến sản xuất thể hiện ở chỗ :
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Chẳng hạn, khi phát triển ngành sản xuất nguyên liệu như bông hay thuốc nhuộm và sự phát triển của ngành chế biến thực phẩm xuất khẩu, dầu thực vật, gạo, chè … có thể kéo theo sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ cho nó.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất trong nước. Điều này muốn nói đến xuất khẩu là phương tiện quan trọng tạo ra vốn và kỹ thuật, công nghệ từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam, nhằm hiện đại hoá nền kinh tế của đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của nước ta sẽ tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Để có thể giành thắng lợi trong các cuộc cạnh tranh đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi với thị trường.
- Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị sản xuất kinh doanh.
* Xuất khẩu có tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đối với đời sống bao gồm nhiều mặt. Trước hết, sản xuất hàng hoá xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu người lao động và đem lại cho họ nguồn thu nhập không nhỏ. Xuất khẩu còn tạo ra vốn để nhập khẩu hàng hoá vật phẩm tiêu dùng hàng ngày, đáp ứng ngày càng phong phú hơn đời sống của nhân dân.
* Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta.
Chúng ta thấy rõ xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu có thể sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác vì vậy tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển. Chẳng hạn xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư phát triển, mở rộng vận tải quốc tế Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này lại tạo tiền đề để mở rộng xuất khẩu.
Tóm lại, đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và thực hiện cong nghiệp hoá đất nước.
* Đối với các doanh nghiệp.
- Xuất khẩu giúp cho các doanh nghiệp sử dụng khả năng dư thừa : các doanh nghiệp thường tính đến khả năng sản xuất trước mắt và lâu dài. Vì thế họ thường tính toán khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu nôi địa. Nhưng thực tế,khả năng sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa là thường xảy ra.
Việc chuyển tài nguyên hay khả năng sản xuất sang quy trình sản xuất hàng hoá mà trong nước đang có nhu cầu là rất khó khăn. Vì vậy, doanh nghiệp có thể tìm kiếm được lợi ích từ thị trường nước ngoài thông qua xuất khẩu các sản phẩm, hàng hoá đang dư thừa.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm được chi phí. Một doanh nghiệp có thể giảm từ 20-30% chi phí mỗi khi sản lượng của nó tăng gấp hai lần. Doanh nghiệp có thể giảm đựơc vhi phí là do : Trang trải chi phí cố định nhờ có sản lượng lớn ; gia tăng hiệu quả nhờ kinh nghiệm sản xuất với số lượng lớn; giảm được chi phí vận chuyển và chi phí mua nguyên liệu khi vận chuyển, mua một số lượng lớn. Việc giảm được chi phí có ý nghĩa to lớn đối với doanh nghiệp cụ thể, nó giúp doanh nghiệp nâng cao được sức cạnh tranh của mình thông qua việc điều chỉnh giá bán hợp lí.
Như vậy, để có thể giảm được chi phí nhờ vào gia tăng sản lượng, các doanh nghiệp cần phải khẳng định mình trên thị trường toàn cầu hơn là thị trường nội địa.
- Xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi ích hơn. Doanh nghiệp có thể bán sản phẩm ở cả thị trường nội địa và thị trường ngoài nước. Nhưng họ có thể có lợi thế nhiều hơn ở nước ngoài. Sở dĩ lợi nhuận thu được ở thị trường ngoài nước nhiều hơn vì môi trường cạnh tranh, giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm ở nước ngoài khác với ở thị trường nội địa. Một sản phẩm đang vào giai đoạn chín muồi ở trong nước làm cho sản phẩm giảm xuống. Trong khi đó ở thị trường ngoài nước sản phẩm lại đang vào giai đoạn phát triển. Do vậy, lúc này nếu xuất khẩu sản phẩm đó ra ngoài nước thì việc giảm giá là không cần thiết. Một lí do khác có thể làm cho lợi nhuận lớn hơn là do có sự khác nhau về chính sách của chính phủ trong nước và ngoài nước về thuế khoá hay sự điều chỉnh giá.
- Doanh nghiệp có thể phân tán rủi ro khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Bằng cách mở rộng thị trường ra nước ngoài, doanh nghiệp có thể giảm thiểu được những biến động về nhu cầu. Sở dĩ như vậy là do chu kỳ kinh doanh thay đổi từ nước này qua nước khác. Hơn nữa các sản phẩm có thể nằm trong các giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của chúng ở các nước khác nhau. Bằng cách mở rộng thị trường, các doanh nghiệp sẽ có thêm nhiều khách hàng và do đó họ có thể giảm được rủi ro tổn thất khi bị mất một số ít khách hàng ở thị trường nội địa.
- Xuất khẩu tạo cơ hội nhập khẩu cho doanh nghiệp : Việc kinh doanh có thể đến tư phía nhà xuất khẩu hay nhà nhập khẩu.
Công việc kinh doanh được thúc đẩy có thể từ phía các nhà nhập khẩu vì họ đang muốn tìm kiếm nguồn cung cấp rẻ hay các bộ phận có chất lượng hơn để sử dụng cho qui trình sản xuất của họ. Hoặc doanh nghiệp đang tìm kiếm mặt hàng mới từ nước ngoài để bổ sung cho mặt hàng đang có nhằm tăng doanh số bán. Nhờ có nguồn cung cấp nguyên liệu phù hợp và rẻ, doanh nghiệp sẽ có thể nâng cao được năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường xuất khẩu.
2.2/ Nhiệm vụ của xuất khẩu hàng hoá
- Phải mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu nhằm tạo thành cao trào xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá cho sự giàu có.
- Phải ra sức khai thác có hiệu quả mọi quyền lực của đất nước như đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật – công nghệ chất xám theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối, lợi thế so sánh.
- Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo ra những mặt hàng (nhóm hàng) xuất khẩu chủ lực đáp ứng những đòi hỏi của thị trường thế giới và của khách hàng về chất lượng và số lượng, có hấp dẫn và khả năng cạnh tranh cao.
3/ Các hình thức xuất khẩu
3.1/ Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp được coi là hoạt động công ty bán hàng hoá trực tiếp cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường trực tiếp bán các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Khách hàng của công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Để thâm nhập thị trường quốc tế qua hình thức xuất khẩu trực tiếp, các công ty thường sử dụng hai hình thức chủ yếu sau đây:
* Đại diện bán hàng:
Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không trên danh nghĩa của mình mà lấy danh nghĩa của người uỷ thác. Đại diện bán hàng được nhận lương và một phần hoa hồng trên cơ sở giá trị của hàng hoá mà họ bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt động như là nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng ở thị trường đó.
* Đại lý phân phối
Đại lý phân phối là người mua hàng hoá của công ty để bán theo kênh tiêu thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối, kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi ro liên quan đến việc bán hàng ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
3.2/ Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khấu gián tiếp được coi là hình thức công ty xuất khẩu các hàng hoá và dịch vụ của minh thông qua trung gian ( thông qua người thứ ba ).
Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là: Đại lý, công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung gian mua bán này không chiếm hữu hàng hoá của công ty nhưng trợ giúp công ty xuất khẩu hàng hoá sang thị trường nước ngoài.
* Đại lý ( Agent ) : là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho một hoặc nhiều nhà xuất khẩu ở thị trường nước ngoài.
Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó do công ty uỷ thác và nhận thù lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hoá. Đại lý là người thiết lập quan hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
* Công ty quản lý xuất khẩu (export management company) : là các công ty nhận uỷ thác và quản lý công tác xuất khẩu hàng hoá.
Công ty quản lý xuất khẩu hàng hoá hoạt động trên danh nghĩa của công ty xuất khẩu ( không phải danh nghĩa của mình ) nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý xuất khẩu là làm dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ các hoạt động đó.
* Công ty kinh doanh xuất khẩu ( Export trading company ): Là công ty hoạt động như là nhà phân phối độc lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu trong nước.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các công ty này còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu, thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho các sản phẩm ví dụ như bao gói, in ấn... Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu.
* Đại lý vận tải : Là các công ty thực hiện các hoạt động thuê vận chuyển và các hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá như khai báo hải quan, biểu thuế quan, các phí giao nhận chuyên chở bao hiểm.
Các đại lý vận tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phat triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hoá đến tận tay người nhận. Khi các công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hàng thì các đại lý và các công ty đó cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu liên quan tới hàng hoá đó. Bản chất các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch vụ bao gọi hàng hoá cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm cho hàng hoá va hoạt động của họ.
II/ Quy trình xuất khẩu hàng hoá ở nước ta hiện nay
Xuất khẩu là hoạt động bán sản phẩm được sản xuất ở trong nước ra nước ngoài, hoạt động này phức tạp hơn rất nhiều so với việc bán sản phẩm ở trong nước. Vì vậy, để hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả chúng ta cần phải tổ chức hoạt động này một cách khoa học và chặt chẽ với nhiều nghiệp vụ khác nhau, từ khâu điều tra nghiên cứu thị trường lựa chọn hàng hoá xuất khẩu, lựa chọn đối tác giao dịch, tiến hành giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng. Mỗi khâu trong quá trình cần phải được nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và đặt nó trong một mỗi quan hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Hiện nay, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu ở Việt Nam thường tiến hành xuất khẩu theo quy trình sau đây : ( sơ đồ quy trình xuất khẩu hàng hoá)
1/ Nghiên cứu thị trường quốc tế
Nghiên cứu thị trường là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường quốc tế. Đó là quá trình điều tra, khảo sát để tìm khả năng bán hàng đối với một hoặc một nhóm sản phẩm, kể cả biện pháp thực hiện mục tiêu đó. Các thông tin về tình hình cung cầu thị trường, động thái giá cả, các chính sách, pháp luật, tập quán buôn bán có liên quan tới xuất nhập khẩu của các nước nhằm lựa chọn được thị trường thích hợp với doanh nghiệp.
Điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài bao gồm các nội dung chủ yếu:
1.1/ Xác định nhu cầu nhập khẩu của bạn hàng
Đây là bước đầu tiên cơ bản nhất, rất quan trọng và cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Bước này đòi hỏi doanh nghiệp khi tham gia xuất khẩu phải có quá trình nghiên cứu, phân tích một cách hệ thống về nhu cầu thị trường cũng như khả năng của doanh nghiệp. Đồng thời phải dự đoán xu hướng biến động của thị trường, cơ hội, thách thức mà mình sẽ gặp phải, nắm bắt đầy đủ về giá cả hàng hoá, các mức giá cho từng điều kiện mua bán và phẩm chất hàng hoá. Bên cạnh đó, để lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu phù hợp, một yếu tố nữa phải được tính toán đến là tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng xuất khẩu (số lượng bản tệ phải chi ra để có thể thu được một đơn vị ngoại tệ). Nếu tỷ suất này thấp hơn tỷ giá hối đoái trên thị trường thì xuất khẩu có hiệu quả.
Doanh nghiệp có thể lựa chọn xuất khẩu các mặt hàng sau:
* SWYG: xuất khẩu những sản phẩm mà mình tự sản xuất (sell what you have got )
* SWAB : xuất khẩu những sản phẩm mà thị trường cần ( sell what people actually buy )
* GLOB: xuất khẩu những sản phẩm giống nhau không phân biệt quốc gia, phong tục tập quán... ( sell the same things globaly disregarding national frontiers )
Về mặt tiêu thụ phải biết mặt hàng định lựa chọn đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của nó trên thị trường quốc tế.
Hình. Sơ đồ chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Doanh số
Bão hoà
Phát triển l
k Thoái trào
Thâm nhập m
j
Thời gian
Việc xuất khẩu những mặt