Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn quý giá nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, đây cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người, mỗi gia đình. Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ mọi người đều được chăm sóc sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, của mỗi gia đình.
94 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Con người là nguồn tài nguyên quan trọng nhất quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn quý giá nhất của mỗi con người và của toàn xã hội, đây cũng là một trong những niềm hạnh phúc lớn nhất của mỗi người, mỗi gia đình. Vì vậy, đầu tư cho sức khoẻ mọi người đều được chăm sóc sức khoẻ chính là đầu tư cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, của mỗi gia đình.
Đất nước ta qua hơn 13 năm chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những thành tựu hết sức to lớn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đời sống của nhân dân đã dần được cải thiện. Do vậy nhu cầu cần được chăm sóc sức khoẻ của nhân dân ngày một cao.
Nhận thức được vai trò của con người trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Nghị quyết Trung Ương IV đã nêu rõ:"Sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ là trách nhiệm của cộng đồng và mỗi người dân, là trách nhiệm của các cấp Đảng uỷ và chính quyền, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội, trong đó ngành Y tế giữ vai trò nòng cốt". Chính phủ đã có nghị quyết 37/CP ngày 20/06/1996 và định hướng chiến lược công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân với nòng cốt là ngành Y tế. Và hệ thống y tế địa phương đã có sự thay đổi theo nghị định 01/1998 NĐ-CP của Chính phủ để phù hợp với điều kiện mới.
Trong khi Quyết định số 07UB/TĐTL ngày 23/1/1975 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước hướng dẫn cơ cấu tổ chức biên chế cán bộ của các cơ sở y tế địa phương ra đời đã hơn 20 năm đến nay có nhiều điểm không còn phù hợp nữa. Hơn nữa, sự phát triển của kinh tế xã hội những năm qua đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường sinh thái làm cho bệnh tật trong nhân dân ngày một gia tăng, do vậy nhiệm vụ của ngành Y tế càng nặng nề thêm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật nói chung và khoa học kỹ thuật y nói riêng đòi hỏi phải có sự sắp xếp lại đội ngũ cán bộ y tế hợp lý đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài.
Trước tình hình đó, yêu cầu sắp xếp lại cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế trong các cơ sở y tế hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân và qua thời gian khảo sát thực trạng cơ cấu cán bộ y tế tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu em đã chọn đề tài "Hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu cán bộ công chức, viên chức y tế ở bệnh viện đa khoa tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Vì còn hạn chế về mặt thời gian, trình độ và kiến thức của bản thân nói chung và kiến thức ngành Y tế nói riêng nên những vấn đề đề cập đến trong bài viết này không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô và cán bộ trong ngành Y tế.
Phần thứ nhất
Những vấn đề cơ bản về tổ chức bộ máy quản lý và cơ cấu lao động trong tổ chức
I/ Những vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm về tổ chức
1.1. Định nghĩa
Theo Chester I. Barnard thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Nói cách khác, khi người ta cùng nhau hợp tác và thoả thuận một cách chính thức để phối hợp những nỗ lực của họ nhằm hoàn thành những mục tiêu chung thì một tổ chức sẽ được hình thành. Trong tổ chức con người cùng làm việc và hợp tác với nhau trong mối quan hệ tương tác qua lại, do vậy mà sự hình thành tổ chức không phụ thuộc vào số lượng các thành viên.
1.2. Những đặc điểm chung của các tổ chức
Các tổ chức cho dù ở cỡ nào cũng có các quy tắc, chính sách và thủ tục nhất định. Chúng được sử dụng để xác định các mục tiêu cho các thành viên, để vạch ra phương pháp tốt nhất cho thực hiện một nhiệm vụ nào đó, để chỉ ra khía cạnh nào của một công việc là quan trọng nhất, và để đưa ra cách đánh giá cá nhân.
Theo nhà tâm lý học tổ chức Edgars thì có 4 đặc điểm chung đối với tất cả các tổ chức:
Một là, kết hợp các nỗ lực của các thành viên.
Như chúng ta thường thấy, khi các cá nhân cùng nhau tham gia và phối hợp những nỗ lực vật chất hay trí tuệ của họ thì nhiều công việc phức tạp và vĩ đại có thể hoàn thành. Sự kết hợp nỗ lực nhân lên sự đóng góp của các cá nhân.
Hai là, có mục đích chung.
Sự kết hợp nỗ lực không thể thực hiện được, nếu những thành viên tham gia không nhất trí cùng nhau phấn đấu cho những quyền lợi chung nào đó. Một mục tiêu chung đem lại cho các thành viên của tổ chức một tiêu điểm để tập hợp nhau lại.
Ba là, sự phân công lao động.
Bằng cách phân chia một cách hệ thống các nhiệm vụ phức tạp thành những công việc cụ thể, một tổ chức có thể sử dụng nguồn nhân lực của nó một cách hiệu quả. Phân công lao động tạo điều kiện cho mỗi thành viên của tổ chức trở lên tài giỏi hơn do chuyên sâu vào một công việc cụ thể.
Bốn là, hệ thống thứ bậc quyền lực.
Theo lý thuyết tổ chức truyền thống nếu bất cứ công việc gì được hoàn thành thông qua những nỗ lực chung chính thức thì một người nào đó nên được giao quyền nhằm bảo đảm cho các mục tiêu đã đề ra được thực hiện một cách hiệu quả. Các nhà lý thuyết tổ chức định nghĩa quyền lực là quyền điều khiển hành động của những người khác. Nếu không có một hệ thống thứ bậc quyền lực rõ ràng thì sự phối hợp những cố gắng của thành viên sẽ rất khó khăn. Một trong những biểu hiện của hệ thứ bậc là hệ thống ra mệnh lệnh và sự phục tùng.
Qua những đặc điểm trên ta có thể xác lập sự hiện diện của một tổ chức.
1.3 Phân loại tổ chức
Các tổ chức được thành lập nhằm theo đuổi những mục tiêu nào đó và có thể phân loại các tổ chức theo mục đích của chúng. Cách phân loại này cho phép giải thích vai trò của mỗi loại tổ chức mà chúng đảm nhiệm trong xã hội.
1.3.1. Các tổ chức kinh doanh mưu lợi
Các tổ chức kinh doanh mưu lợi là những tổ chức hoạt động với mục đích tạo ra lợi nhuận trong điều kiện pháp luật cho phép và xã hội có thể chấp nhận được. Loại tổ chức này không thể tồn tại được nếu không tạo ra lợi nhuận thông qua con đường sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ thoả mãn nhu cầu xã hội.
1.3.2. Các tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận.
Những tổ chức loại này thường cung cấp một số loại dịch vụ nào đó, cho một khu vực nào đó của xã hội không vì mục đích tìm lợi nhuận. Các nguồn ngân quỹ phục vụ cho hoạt động của loại tổ chức này chủ yếu dựa vào sự biếu tặng, trợ cấp, hay tài trợ mang tính từ thiện hay nhân đạo... Các tổ chức loại này bao gồm các trường học, bệnh viện miễn phí.v.v.
1.3.3. Các tổ chức hoạt động vì quyền lợi chung của tập thể
Những tổ chức loại này được thành lập nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các thành viên của nó. Để tồn tại, những tổ chức loại này cũng phải hoạt động một cách hiệu qủa và hữu hiệu. Những tổ chức loại này bao gồm các nghiệp đoàn, các tổ chức chính trị, các hiệp hội, hội đoàn .v.v.
1.3.4. Các tổ chức cung ứng các dịch vụ công cộng
Những tổ chức loại này được thành lập nhằm cung cấp cho xã hội những dịch vụ công cộng. Mục tiêu chung của chúng là đảm bảo sự an toàn hay lợi ích chung cho toàn xã hội. Chẳng hạn, những tổ chức loại này bao gồm các đơn vị quân đội, cảnh sát, các đơn vị thuộc ngành bưu chính viễn thông...
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất cả các đơn vị y tế thuộc ngành Y tế đều do Nhà nước quản lý. Do vậy mà mục đích phục vụ , chăm sóc sức khoẻ nhân dân là mục đích chủ yếu. Do đó các đơn vị y tế Nhà nước đều thuộc loại "tổ chức cung cấp dịch vụ phi lợi nhuận và dịch vụ công cộng".
2. Cơ cấu tổ chức của một đơn vị
2.1. Khái niệm
Cơ cấu tổ chức bộ máy của một đơn vị (cơ cấu tổ chức quản trị) là tổng hợp các bộ phận ( đơn vị và cá nhân) khác nhau, có mối quan hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá và có những trách nhiệm , quyền hạn nhất định, được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện các chức năng quản trị và phục vụ mục đích chung đã xác định của đơn vị.
Cơ cấu tổ chức cho phép chúng ta tổ chức và xử dụng hợp lý các nguồn lực - phân bổ nguồn nhân lực và các nguồn lực khác cho từng bộ phận và công việc cụ thể. Nó cũng cho phép chúng ta xác định rõ mối tương quan giữa các hoạt động cụ thể và trách nhiệm quyền hạn gắn liền với mỗi cá nhân, phân hệ của cơ cấu - xác định rõ trách nhiệm và cách thức thể hiện vai trò của mỗi thành viên theo quy chế của bản mô tả công việc, sơ đồ tổ chức và hệ thống phân cấp quyền hạn trong tổ chức. Nó trợ giúp cho việc ra quyết định bởi các luồng thông tin rõ ràng. Nó trợ giúp cho việc ra quyết định bởi các luồng thông tin rõ ràng. Nó giúp xác định cơ cấu quyền lực cho tổ chức.
2.2. Những thành phần cơ bản của cơ cấu tổ chức
Cơ cấu của một tổ chức gồm có 4 yếu tố cơ bản:
2.2.1. Chuyên môn hoá
Chuyên môn hoá là quá trình nhận diện những công việc cụ thể và phân công các cá nhân hay nhóm làm việc đã được huấn luyện thích hợp đảm nhiệm chúng. Do đó trong tổ chức, một cá nhân hay nhóm làm việc có thể chuyên sâu vào một công việc hay công đoạn nào đó trong quá trình sản xuất.
2.2.2. Tiêu chuẩn hoá
Tiêu chuẩn hoá là quá trình phát triển các thủ tục của tổ chức mà theo đó các nhân viên có thể hoàn thành công việc của họ theo một cách thức thống nhất và thích hợp. Quy trình nàY tác động vào mỗi nhân viên như một cơ chế mà các công việc không được tiêu chuẩn hoá thì tổ chức không thể đạt được các mục tiêu của nó.
Các tiêu chuẩn cho phép các nhà quản trị đo lường các thành tích của nhân viên. Đồng thời cùng với bản mô tả công việc, các tiêu chuẩn công việc là cơ sở để tuyển chọn nhân viên cho tổ chức.
2.2.3. Sự phối hợp
Phối hợp là những thủ tục chính thức và phi chính thức để liên kết các hoạt động do các nhóm riêng rẽ trong tổ chức đảm nhiệm. Trong các tổ chức quan liêu, các quy định, quy chế của nó đã đủ để liên kết những hoạt động này. Còn trong những tổ chức có cấu trúc lỏng lẻo đòi hỏi có sự phối hợp một cách linh hoạt trong việc giải quyết những vấn đề của toàn đơn vị, đòi hỏi sự sẵn lòng chia xẻ trách nhiệm và sự truyền thống một cách hiệu quả giữa các thành viên của tổ chức.
2.2.4. Quyền lực
Quyền lực là quyền ra quyết định và điều khiển hoạt động của người khác.
Mỗi tổ chức thường có những cách thức phân bố quyền lực khác nhau. Trong những tổ chức phi tập trung, một số quyền ra quyết định được uỷ quyền cho cấp dưới và ngược lại, trong các tổ tập quyền thì quyền ra quyết định được tập trung vào các nhà quản trị cao cấp.
Ngày nay các tổ chức thường kết hợp hai khuynh hướng này bằng cách tập trung một số chức năng nào đó, đồng thời cũng tiến hành phân tán một số chức năng khác.
2.3. Các loại cơ cấu tổ chức
Như chúng ta đã thấy rằng sự chuyên môn hoá xảy ra thông qua sự phân công lao động. Nhờ sự phân công lao động mà quá trình sản xuất, dịch vụ trở nên ít phức tạp hơn và có thể phân biệt dễ dàng hơn. Nhưng quá trình này có khuynh hướng phân nhỏ nên xuất hiện nhu cầu phối hợp các bộ phận của tổ chức với nhau. Khuynh hướng kết hợp phổ biến nhất là sự cơ cấu hoá những công việc, những hoạt động có liên quan mật thiết với nhau thành các bộ phận, đơn vị trong tổ chức.
Có 4 hình thức cơ cấu hoá cơ bản các hoạt động của tổ chức là:
- Cơ cấu theo chức năng
- Cơ cấu theo sản phẩm, dịch vụ
- Cơ cấu theo phạm vi địa lý
- Cơ cấu ma trận
2.3.1. Cơ cấu theo chức năng
Các chức năng là các phần việc được tiến hành trong một tổ chức như chức năng tài chính, chức năng tổ chức, chức năng kế hoạch, chức năng , sản xuất. Cơ cấu chức năng phân công các thành viên theo những lĩnh vực chuyên môn mà họ tinh thông, cùng những nguồn lực giúp họ hoàn thành các công việc của tổ chức.
Các bộ phận chức năng được phân chia tuỳ theo tính chất của từng tổ chức. Chẳng hạn các bộ phận chức năng trong một bệnh viện thì được phân chia khác hẳn so với một doanh nghiệp sản xuất vật chất.
Lãnh đạo
Bộ phận chức năng I
Bộ phận chức năng II
3
4
2
1
Sơ đồ 1: cơ cấu tổ chức theo chức năng
1,2,3,4 là các bộ phận thực hiện theo chức năng nhỏ hơn.
* Những ưu, nhược điểm của cơ cấu theo chức năng .
ưu điểm:
- Cơ cấu phân chia các nhiệm vụ rất rõ ràng thích hợp với những lĩnh vực cá nhân được đào tạo.
- Tập trung quyền lực và quyền ra quyết định vào các quản trị gia cao cấp. Việc ra các quyết định thuộc về các nhà quản trị đứng đầu các bộ phận và cấp trên của họ. Do đó họ có thể ra quyết định một cách nhanh chóng và kịp thời.
- Cơ cấu chức năng cho phép tổ chức tiết kiệm chi phí bởi nó là một cấu trúc đơn giản, mặt khác các thành viên của tổ chức có cơ hội nâng cao kỹ năng tay nghề trong lĩnh vực chuyên môn của họ và gia tăng hiệu quả hoạt động thông qua sự phối hợp với các đồng nghiệp trong cùng một bộ phận.
- Cơ cấu cung cấp một nền đào tạo tốt cho các nhà phụ trách mới chuyển dịch từ cái họ học vào hành động của tổ chức.
Nhược điểm:
- Cơ cấu có thể thúc đẩy sự đào tạo hẹp cho các cá nhân và dẫn tới các công việc nhàm chán và một tuyến.
- Khi tổ chức phát triển với quy mô lớn thì việc ra quyết định trở nên khó khăn, phức tạp hơn, bởi quá trình này phải qua nhiều tầng nấc, nhất là khi có sự mâu thuẫn giữa các bộ phận thì quá trình này càng phức tạp tốn kém thời gian hơn.
- Các nhà quản trị gia có thể mất khá nhiều thời gian, sức lực để phối hợp các hoạt động của các thành viên thuộc những bộ phận khác nhau. Đồng thời các nhà quản trị và nhân viên của mỗi bộ phận thường chú trọng vào những mục tiêu của bộ phận mà họ đang làm hơn là mục tiêu chung của tổ chức . Do đó lãnh đạo chỉ lo lắng cho bộ phận mà họ phụ trách nên rất khó đồng tình với quan điểm của các nhà quản trị khác. Trong khi đó, do trung thành với bộ phận của họ nên các nhân viên cũng rất khó hợp tác với nhân viên ở bộ phận khác.
2.3.2. Cơ cấu theo khu vực địa lý
Cơ cấu chức năng theo khu vực địa lý thường được các đơn vị lớn áp dụng, hoạt động kinh doanh dịch vụ trong nhiều vùng địa lý khác nhau. Tại mỗi khu vực địa lý có một đơn vị nhỏ, người lãnh đạo đơn vị nhỏ được giao quyền đảm nhiệm thực hiện tất cả các chức năng như đơn vị lớn nhưng với quy mô nhỏ hơn.
Mỗi đơn vị của tổ chức hoạt động tại một khu vực địa lý có thể trực tiếp theo sát mọi biến động và đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng. Về mặt sản xuất, nhà máy đặt tại các khu vực gần nơi cung cấp nguyên liệu do đó có thể tiết kiệm được chi phí do giá cả nguyên liệu, chi phí vận chuyển và sử dụng được lao động tại chỗ. Đồng thời các dịch vụ khách hàng, dịch vụ hậu mãi được tiến hành phù hợp với khách hàng sở tại.
Cơ cấu theo khu vực địa lý thường được áp dụng trong việc tổ chức bộ máy chính quyền ở các nước, áp dụng đối với các công ty lớn, các tập đoàn, các ngành kinh tế - xã hội.
Văn phòng trung tâm
1
3
4
2
Sơ đồ 2: cơ cấu theo khu vực địa lý.
1, 2, 3, 4, là các khu vực địa lý khác nhau
* Ưu nhược điểm của cơ cấu theo cùng địa lý.
ưu điểm:
- Cơ cấu theo khu vực địa lý cho phép nắm bắt được mọi biến động một cách nhanh nhất để có quyết định hợp thời đáp ứng được nhu cầu của từng khu vực.
- Tại các vùng thường có nguồn nguyên liệu và nhân lực dồi dào có thể sử dụng tại chỗ vừa tiết kiệm được chi phí, vừa hạn chế được việc điều động nhân lực.
- Các nhà quản trị có thể phát triển các kỹ năng, chuyên môn, kỹ thuật để giải quyết các vấn đề chuyên môn phù hợp với thực tế.
Nhược điểm:
- Tất cả các bộ phận chức năng đều được thiết lập tại mỗi văn phòng khu vực do đó cơ cấu tổ chức bộ máy khá cồng kềnh .
- Rất dễ xảy ra những xung đột giữa các mục tiêu của mỗi văn phòng khu vực với các mục tiêu chung của tổ chức.
- Tổ chức phải đề ra nhiều quy chế và quy định để phối hợp và đảm bảo sự thống nhất giữa các bộ phận khu vực.
- Cơ cấu này không khuyến khích các nhân viên phát triển những kiến thức giải quyết những vấn đề tại các khu vực khác.
2.3.3. Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ
Lãnh đạo
sản phẩm dịch vụ X
sản phẩm dịch vụ Y
2
3
1
2
3
1
Sơ đồ 3: cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ
1, 2, 3, là các bộ phận chức năng.
Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ phân chia tổ chức thành những đơn vị chuyên trách thiết kế, sản xuất và tiêu thụ một sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Cơ cấu theo mô hình này tỏ ra rất phù hợp với các đơn vị, tổ chức có quy mô lớn.
Trong mỗi đơn vị được tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ đều phải hiện diện đầy đủ các bộ phận chức năng phục vụ cho hoạt động của đơn vị đó.
* ưu, nhược điểm của cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ
ưu điểm:
- Gia tăng sự chuyên môn hoá bởi cơ cấu này cho phép các nhà quản trị và nhân viên trong từng bộ phận tập trung vào tuyến sản phẩm hay dịch vụ mà họ đảm nhận.
- Cho phép xác định một cách khá chính xác các yếu tố; chi phí, lợi nhuận, những vấn đề cần giải quyết và khả năng thành công trong mỗi tuyến sản phẩm, hay dịch vụ.
- Cho phép mỗi bộ phận có thể phát huy tối đa khả năng cạnh tranh hay lợi thế chiến lược của mỗi sản phẩm hay dịch vụ.
- Do chú trọng vào một vài sản phẩm hay dịch vụ nên các nhà quản trị có thể duy trì tính linh hoạt, phản ứng kịp thời với những thay đổi về nhu cầu tiêu dùng và sự thay đổi của môi trường.
Nhược điểm:
- Sử dụng không hiệu quả các nguồn lực của tổ chức, bởi phải thường tổ chức ra tất cả các bộ phận chức năng cho mỗi tuyến sản phẩm hay dịch vụ. Nếu sản phẩm hay dịch vụ có tính mùa vụ cao thì có thể gây lãng phí về nhân công.
- Rất khó phối hợp hoạt động giữa các bộ phận sản phẩm bởi nhân viên thường chú trọng vào sản phẩm hay dịch vụ của họ hơn là các mục tiêu của toàn tổ chức. Tình trạng này làm giảm khả năng cạnh tranh chung của tổ chức bởi rất khó khăn. Khi điều động các nguồn lực từ sản phẩm hay dịch vụ mạnh chi viện tăng cường cho sản phẩm hay dịch vụ yếu.
- Cơ cấu tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ làm giảm sự điều động nhân sự trong nội bộ. Bởi nhân viên tập trung vào một sản phẩm hay dịch vụ nên họ chú trọng phát triển những kỹ năng cần thiết cho loại sản phẩm hay dịch vụ đó. Sự chuyên môn hoá đó không cho phép họ có thể thuyên chuyển sang các chức vụ thuộc các sản phẩm khác.
- Có thể lãnh đạo cấp cao đặt ra những tiêu chuẩn chung cho tất cả các tuyến sản phẩm hay dịch vụ của cả tổ chức mà không quan tâm đến những đặc điểm của các đơn vị khác nhau.
Trong ngành Y tế nước ta thường áp dụng cơ cấu này đối với việc quản lý các bệnh viện chuyên khoa.
2.3.4. Cơ cấu tổ chức ma trận
Cơ cấu tổ chức ma trận là loại cơ cấu tổ chức dựa trên những hệ thống quyền lực và hỗ trợ nhiều chiều. Cơ cấu này tạo ra một bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp các hoạt động của các bộ phận khác và phân chia quyền lực với tất cả các lãnh đạo các bộ phận theo chức năng và lãnh đạo các bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ.
Trong một cơ cấu ma trận có hai tuyến quyền lực, tuyến chức năng hoạt động theo chiều dọc và tuyến sản phẩm hay dịch vụ hoạt động theo chiều ngang. Bởi vậy một cơ cấu ma trận tồn tại ba tập hợp các mối quan hệ đơn tuyến.
- Các mối quan hệ giữa lãnh đạo bộ phận chịu trách nhiệm phối hợp là người đứng đầu và cân bằng hai tuyến quyền lực với các lãnh đạo bộ phận theo chức năng và lãnh đạo bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ.
- Các mối quan hệ giữa lãnh đạo bộ phận chức năng và lãnh đạo bộ phận theo sản phẩm hay dịch vụ.
- Các mối quan hệ giữa các cấp dưới ở các bộ phận.
Cơ cấu mà trên được sáng tạo ra nhằm tận dụng những lợi điểm của cả mô hình cơ cấu tổ chức theo chức năng và mô hình tổ chức theo sản phẩm hay dịch vụ, đồng thời tối thiểu hoá những bất lợi của chúng. Cơ cấu này phá vỡ những rào cản bằng cách cho phép các nhân viên từ các bộ phận chức năng khác nhau đóng góp những kỹ năng của họ trong việc giải quyết những vấn đề chung của tổ chức. Do đó, làm tăng khả năng sử dụng các nguồn lực nhằm thích nghi với sự tác động của môi trường.
Đây là một cơ cấu tổ chức khá phức tạp đòi hỏi sự phối hợp giữa các thành viên ở các bộ phận là rất cao.
Lãnh đạo
Lãnh đạo chức năng 3
Lãnh đạo chức năng 2
Lãnh đạo chức năng 1
Lãnh đạo bộ phận phối hợp
1
2
Sơ đồ 4: Cơ cấu tổ chức ma trận.
1.2. Là phụ trách các dự án hoặc sản phẩm hay dịch vụ
* Những ưu, điểm và nhược điểm của cơ cấu tổ chức ma trận.
Ưu điểm:
- Kết hợp sức mạnh và hạn chế yếu điểm của cơ cấu chức năng và cơ cấu theo sản phẩm hay dịch vụ. Đồng thời các nhà quản trị có thể rút ra được nhiều kỹ năng chuyên môn từ nhiều lĩn