Đề tài Hoạt động khai thác các giá trị văn hoá Việt Nam trong Festival Huế 2006

Trong bối cảnh toàn cầu hoá thế giới, văn hoá được xem là nét đặc trưng phân biệt quỐc gia này với quốc gia khác đồng thời là yếu tố được khai thác phục vụ mục đích giao lưu, hội nhập, phát triển, nối nhịp cầu đưa các quốc gia tiến lại gần nhau hơn. Festival Huế 2006 kế tiếp các kỳ Festival Huế trước đó là một hoạt động văn hoá mang tầm vóc quốc tế của Việt Nam nơi chọn lọc, kết tinh những giá trị văn hoá tiêu biểu của nước nhà góp phần không nhỏ cho việc tôn vinh văn hóa Việt và đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Trước yêu cầu khách quan của việc tôn vinh văn hoá Việt, nâng tầm văn hoá Việt trên trường quốc tế và yêu cầu phát triển đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đặc biệt nhu cầu quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới; hơn nữa lại nhận thấy rằng Festival Huế 2006 là một sự kiện văn hoá tiêu biểu của năm, nơi các yếu tố văn hoá tiêu biểu của VN được khai thác có chọn lọc và tạo nên những tác động nhiều mặt tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có du lịch nên người viết quyết định nghiên cứu đề tài này. Thông qua đề tài, TÁC GIẢ MUỐN Tìm hiểu các yếu tố văn hoá Việt được khai thác trong Festival Huế năm 2006 để từ đó thấy được vẻ đẹp toàn diện, đa dạng, đặc sắc của văn hoá VN. Đồng thời, dưới góc độ một sinh viên chuyên ngành Du lịch, TÁC GIẢ MONG MUỐN tìm hiểu các tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của việc khai thác văn hoá trong Festival Huế 2006 đối với hoạt động du lịch NHẰM đề xuất hướng khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tích cực.

doc41 trang | Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động khai thác các giá trị văn hoá Việt Nam trong Festival Huế 2006, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hoạt động khai thác các giá trị văn hoá Việt Nam trong festival Huế 2006 LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh toàn cầu hoá thế giới, văn hoá được xem là nét đặc trưng phân biệt quỐc gia này với quốc gia khác đồng thời là yếu tố được khai thác phục vụ mục đích giao lưu, hội nhập, phát triển, nối nhịp cầu đưa các quốc gia tiến lại gần nhau hơn. Festival Huế 2006 kế tiếp các kỳ Festival Huế trước đó là một hoạt động văn hoá mang tầm vóc quốc tế của Việt Nam nơi chọn lọc, kết tinh những giá trị văn hoá tiêu biểu của nước nhà góp phần không nhỏ cho việc tôn vinh văn hóa Việt và đưa hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Trước yêu cầu khách quan của việc tôn vinh văn hoá Việt, nâng tầm văn hoá Việt trên trường quốc tế và yêu cầu phát triển đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đặc biệt nhu cầu quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới; hơn nữa lại nhận thấy rằng Festival Huế 2006 là một sự kiện văn hoá tiêu biểu của năm, nơi các yếu tố văn hoá tiêu biểu của VN được khai thác có chọn lọc và tạo nên những tác động nhiều mặt tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có du lịch nên người viết quyết định nghiên cứu đề tài này. Thông qua đề tài, TÁC GIẢ MUỐN Tìm hiểu các yếu tố văn hoá Việt được khai thác trong Festival Huế năm 2006 để từ đó thấy được vẻ đẹp toàn diện, đa dạng, đặc sắc của văn hoá VN. Đồng thời, dưới góc độ một sinh viên chuyên ngành Du lịch, TÁC GIẢ MONG MUỐN tìm hiểu các tác động cả tích cực lẫn tiêu cực của việc khai thác văn hoá trong Festival Huế 2006 đối với hoạt động du lịch NHẰM đề xuất hướng khắc phục những hạn chế, phát huy những mặt tích cực. TRONG GIỚI HẠN CỦA MỘT NIÊN LUẬN, tác giả chủ yếu khai thác sự kiện văn hoá FESTIVAL HUẾ 2006 CỤ THỂ LÀ nghiên cứu và khai thác các giá trị văn hoá Việt qua Festival Huế 2006 và tác động của nó đối với hoạt động du lịch. Do thời lượng hạn chế nên niên luận này chỉ tập trung nghiên cứu việc khai thác các yếu tố bao gồm: Kiến trúc Nghệ thuật trình diễn Sân khấu tuồng, chèo, cải lương Nghề thủ công (thể hiện ở sản phẩm trưng bày, sản phẩm lưu niệm) Ẩm thực Nghệ thuật tạo hình và âm thanh Các yếu tố khác Phương pháp nghiên cứu được tÁc giẢ sỬ dỤng Ở đây gỒm cÓ: phương phÁp hệ thống, thu thập và xử lý tài liệu cÙng vỚi phương phÁp thống kê, so sánh. NỘI DUNG CHÍNH Chương I: Khái quát về văn hoá và festival Huế 2006 1. Khái quát về văn hoá: * Khái niệm văn hoá Văn hoá là một phạm trù khoa học rất rộng mà đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nó. Tuy nhiên trong giới hạn niên luận này, người viết xin trình bày một khái niệm gần gũi nhất với nội dung nghiên cứu của đề tài. Đó là định nghĩa văn hoá của ông Federico Mayo, Tổng giám đốc UNESCO trong tạp chí Người đưa tin UNESCO số 11 năm 1989: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,phong tục tập quán, lối sống và lao động” * Phân loại các thành tố văn hoá: Cũng giống như khái niệm văn hoá, hiện vẫn đang tồn tại rất nhiêu cách phân laọi các thành tố của văn hoá. Ở đây, người viết sử dụng cách phân loại của các tác giả trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam” do cố giáo sư Trần Quốc Vượng chủ biên. Trong cuốn sách này, văn hoá được chia thành các thành phần bao gồm: ngôn ngữ; nghề thủ công; sân khấu tuồng, chèo, kịch; lễ hội; nghệ thuật âm thanh; phong tục tập quán; kiến trúc; tín ngưỡng tôn giáo, nghệ thuật tạo hình; lối sống; nhiếp ảnh, điện ảnh; văn chương; mass-media; thông tin, tín hiệu. 2. Khái quát về festival Huế * Khái niệm Festival “Festival” vốn không phải là từ có trong ngôn ngữ Việt Nam mà là từ vay mượn của nước ngoài. Trong từ điển Wikipedia - từ điển Bách khoa Tri thức thì festival được định nghĩa như sau: “Festival is a day or period of celebration or a series of perforrmance of music, drama…given regularly, especially once a year”, tạm dịch như sau: “Festival là ngày hội, đại hội, liên hoan hoặc đợt biểu diễn thường kỳ về âm nhạc, điện ảnh…”Trong các loại festival, festival du lịch được nhắc đến nhiều nhất. Khi chuyển thể sang tiếng Việt, đôi khi thuật ngữ này cũng được dịch là liên hoan du lịch, lễ hội du lịch hay lễ hội văn hoá du lịch. Tuy nhiên, từ gốc vẫn bỉểu thị chính xác nhất đặc thù của nó. Nhìn chung, festival du lịch được hiểu là một hoạt động văn hoá du lịch được tổ chức thường kỳ, là ngày hội du lịch của địa phương, vùng, quốc gia. khu vực…nhằm gắn kết các hoạt động văn hoá, thể thao, hội nghị, hội thảo… với hoạt động du lịch nhằm giới thiệu sâu rộng với ngườì dân, khách du lịch trong và ngoài nước về tiềm năng du lịch, đất nước, con người địa phương, vùng, quốc gia hay khu vực đó; tạo cơ hội kinh doanh hợp tác du lịch giữa các doanh nghiệp, các tổ chức du lịch và giữa các quốc gia, góp phần thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển. * Festival Huế và festival Huế 2006 : Festival Huế là một hoạt động văn hoá tổ chức hai năm một lần ở thành phố Huế nhằm giới thiệu về Huế, về đất nước, con người Việt Nam qua các hoạt động biểu diễn văn hoá nghệ thuật, hội chợ, hội thảo, giao lưu…tạo cơ hội phát triển kinh tế - xã hội trong đó có lĩnh vực du lịch. Festival Huế 2006 là một festival du lịch, với chủ đề "700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân -Thừa Thiên Huế, Di sản văn hoá với hội nhập và phát triển" diễn ra liên tục trong 9 ngày đêm (từ ngày 3 đến 11/6) bao gồm 2 chương trình chính là chương trình IN và OFF quy tụ nhiều loại hình nghệ thuật và lễ hội đặc sắc, sôi động và hấp dẫn Festival Huế 2006 được tổ chức tại các địa diểm như: Đại Nội, Hồ Tịnh Tâm, Cung An Định, Quảng trường Ngọ Môn, Trung tâm Thi đấu Thể dục Thể thao, Trung tâm Giải trí Hồ Thủy Tiên, Công viên (Nguyễn Văn Trỗi, Thương Bạc, Ngự Bình), Trung tâm Văn hóa Pháp và trung tâm triển lãm thành phố Huế ...trong đó sân khấu chính là khu vực từ Đại Nội đến quảng trường Ngọ Môn. Chương II: Hoạt động khai thác các giá trị văn hoá Việt Nam trong festival Huế 2006 Như trên đã trình bày, festival Huế 2006 là một festival du lịch. Vì vậy, hoạt động khai thác văn hoá trong festival Huế là hoạt động không thể thiếu. Việc khai thác các yếu tố này rất đa dạng, phức tạp nhưng với những nỗ lực và quyết tâm, người Việt Nam nói chung, Huế nói riêng đã phác hoạ được bức chân dung cũng là thông điệp văn hoá đầy màu sắc gửi đến bạn bè bốn phương. Trong bài viết này, tác giả xin trình bày việc khai thác các yếu tố văn hoá đó căn cứ theo quan điểm phân loại các thành tố văn hoá ở trên. 1. Kiến trúc: Không gian chính nơi diễn ra Festival Huế là trái tim của Huế, đó là quần thể di tích cố đô Huế. Quần thể di tích cố đô Huế được ghi vào danh sách Di sản văn hóa thế giới năm 1993. Không gian đậm ®ặc chất văn hoá ấy được lựa chọn là nơi tổ chức Festival Huế - một festival quốc tế diÔn ra 2 năm một lần. Trong đó, không gian chính của festival Huế chủ yếu tập trung vào khu vực Đại Nội của kinh thành Huế. Nằm trong tổng thể kiến trúc kinh thành Huế, vừa là cổng chính, vừa là bộ mặt Ðại Nội, Ngọ Môn là một tổng thế kiến trúc đa dạng, phía trên là lầu Ngũ Phụng với chức năng như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ nghi trọng thể như duyệt binh, lễ xướng tên những người thi đỗ tiến sĩ, lễ ban sóc hàng năm. Ở trong lòng Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Ðại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử Cấm Thành bảo vệ nơi làm việc, ăn ở và sinh họat hàng ngày của nhà vua và gia đình…Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Ðại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau trong đó quan trọng nhất là khu vực từ Ngọ Môn đến Ðiện Thái Hòa vốn là nơi cử hành các nghi lễ lớn nay được sử dụng như một không gian văn hoá lý tưởng cho festival Huế 2006. Không chỉ khai thác giá trị kiến trúc - mỹ thuật Đại Nội như một yếu tố văn hoá tiêu biểu, festival Huế 2006 còn tổ chức trại sáng tác Điêu khắc Quốc tế lần thứ IV khai mạc vào chiều 3/5/2006, mở đầu cho festival. Khác với 3 trại trước ở hai bờ sông Hương thơ mộng, các nhà điêu khắc đến dự trại lần này sẽ có hơn một tháng làm việc bên hồ Thủy Tiên của đồi Thiên An nổi tiếng hữu tình.Với chủ đề “Ấn tượng Huế - Việt Nam 2006”, Trại sáng tác Điêu khắc lần này có 26 tác giả là các nhà điêu khắc đến từ 9 quốc gia trên thế giới, trong đó có 14 tác giả nước ngoài và 12 tác giả Việt Nam. Có các tác giả đã tham dự trại lần trước như nữ điêu khắc gia Bonita Ely (Australia), Trần Luân Tín, Phan Đình Tiến, Vương Học Báo... Ban điều hành trại đã tập kết 20 tảng đá trắng tại Hồ Thủy Tiên, chuẩn bị các chất liệu bền vững như composit, kim loại không gỉ theo yêu cầu sáng tác của các tác giả. Thành công của trại tạo thêm một quần thể điêu khắc đương đại tại thành phố Huế anh hùng, nơi đang lưu giữ hai di sản văn hóa của nhân loại. Cùng với các tác phẩm của 3 trại trước đó bên bờ sông Hương, những tác phẩm điêu khắc lần này sẽ góp phần làm nên một vườn tượng Quốc tế có quy mô theo xu hướng đương đại sẽ được xây dựng tại Huế trong tương lai, góp phần làm phong phú thêm vốn kiến trúc văn hoá Huế. Giá trị kiến trúc Việt gắn chặt với gốc văn hoá có cội nguồn sâu xa từ văn hoá phương Đông. Đạo diễn Lê Quý Dương, tác giả chính của lễ hội Đêm Hoàng cung, cho biết: "Tiền đề triết học của kiến trúc, văn hóa, nghệ thuật và đời sống của hoàng cung Huế được xây dựng và áp dụng theo nguyên tắc dịch học phương Đông. Cung đình Huế và triều đại nhà Nguyễn đã trở thành một huyền thoại mang tính lịch sử gắn với di tích cố đô. Huyền thoại này đang dần chìm vào quên lãng nên cần được bảo tồn và giới thiệu một cách phù hợp". Cũng theo đạo diễn Lê Quý Phương, cấu trúc của chương trình được diễn ra trên toàn bộ khuôn viên của Hoàng cung xưa với hai chương trình Động và Tĩnh. Chương trình Động tái hiện các đoàn cấm vệ quân đi tuần quanh Hoàng thành, các đoàn kiệu rước với lọng và đèn của quý bà, cung tần mỹ nữ đi bên cửa Chương Đức và quý ông, vương tước, quan lại đi bên cửa Hiển Nhơn. Chương trình Tĩnh được bố trí thành 3 trục chính: Trục Trung đạo: Ngọ Môn, cầu Trung đạo, sân Đại triều, điện Thái Hòa, đại Cung Môn, điện Cần Chánh, Tả Hữu vu, nền điện Càn Thành, nền điện Khuôn Thái, Lục viện, trước nền điện Kiến Trung. Trục bên cửa Chương Đức: Từ Hiển Lâm Các - Thế Miếu - Hưng Miếu - điện Phụng Tiên - cung Diên Thọ, cung Trường Sanh. Trục bên cửa Hiển Nhơn: Thái Miếu - Triệu Miếu, phủ Nội vụ, Duyệt Thị Đường, Thái Bình Lâu, vườn Cơ Hạ. Sự sắp đặt, bố trí này cũng tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc kiến trúc truyền thống Việt Nam. Đó là nguyên tắc tôn trọng tính đăng đối, hài hoà theo tinh thần Dịch học và phong thuỷ.Không những thế, quanh hệ thống Trường lang, các tác phẩm của nhiếp ảnh gia Đào Hoa Nữ về kiến trúc cung đình Huế được trưng bày cũng góp phần tôn vinh vẻ đẹp của hệ thống các cung điện, lầu son gác tía Đại Nội. Các giá trị kiến trúc vốn có của kinh thành Huế với tư cách là một phần của di sản văn hoá thế giới đã được tôn vinh cũng như được quy hoạch theo tinh thần văn hoá kiến trúc truyền thống. Nhờ vậy, văn hoá Việt,kiến trúc Việt trở nên lung linh trong Đêm hoàng cung đầy màu sắc nói riêng, trong suốt festival nói chung. 2. NghÖ thËt t¹o h×nh vµ ©m thanh: Đây cũng là một yếu tố văn hoá được khai thác thành công trong festival Huế 2006. Nghệ thuật tạo hình và âm thanh ở đây tập trung chủ yếu ở nghÖ thËt bè trÝ vµ trang trÝ c¸c s©n khÊu. Sân khấu cho đêm khai mạc được thiết kế 3 tầng với phần lõi là một sân khấu xoay có đường kính 20m, cao 1,5m, với tốc độ xoay 1,5 vòng/phút, được bao bởi đường dẫn hình cung thoai thoải với bề mặt 4m. Tiếp nối với sân khấu xoay ở giữa là một hồ nước nhân tạo có hình vành khăn, sức chứa 120m3 nước dùng để thả sen, điểm xuyết bằng những chiếc thuyền nan mềm mại với tay chèo khoan nhặt của những cô gái Huế. Ngoài cùng là một vòng cung cao khoảng 0,5m được thiết kế bằng cách gắn những hoa văn theo mô-típ ở các trường lang của Tử cấm thành bằng gốm. Hệ thống chiếu sáng được thiết kế với 500 đèn các loại, trong đó có 10 đèn Sky - light, mỗi cây có công suất là 5.000W và 300 đèn Par 64 với tổng công suất chiếu sáng lên đến 300.000W. Bao quanh khu vực sân khấu chính là 3 cụm khán đài với sức chứa 4.500 chỗ ngồi. Hậu phông của sân khấu khai mạc là lầu Ngũ Phụng cửa Ngọ Môn và một dãy mặt tiền của Hoàng thành được phát sáng bằng hàng ngàn ngọn đèn lồng lung linh kết hợp với nghệ thuật pháo hoa độc đáo của nghệ sĩ pháo hoa nổi tiếng quốc tế Pierre Alain Hubert. Hệ thống sân khấu này tuy là hình thức sân khấu quay hiện đại, nhưng vẫn được kết hợp linh hoạt đầy sáng tạo với hồ nước, hoa sen, với cọng tre rất truyền thống của Việt Nam. Sự bài trí sân khấu hài hoà giữa các yếu tố văn hoá phương Đông và phương Tây, giữa âm thanh và hình khối đã làm nổi bật những yếu tố văn hoá Việt mà một trong những yếu tố ấy là tinh thần dung hợp các yếu tố văn hoá hội nhập để làm phong phú, giàu có hơn nền văn hoá vốn có của mình. Với tính linh hoạt vốn có, những chủ nhân của văn hoá Việt không chỉ bó hẹp không gian văn hoá festival Huế ở các sân khấu cố định mà còn sử dụng các địa chỉ văn hoá làm sân khấu biêu diễn như cầu Tràng Tiền, Kỳ đài Huế, sông Hương làm nơi trình diễn trang phục áo dài vốn là niềm tự hào của thiếu nữ Huế, của người dân Việt Nam. Phát huy sự khéo léo trong bài trí sân khấu, Đêm Hoàng cung Huế gieo vào tâm trí người xem những ấn tượng khó quên bằng ánh sáng của 13 ngàn bát nến, của 700 chiếc đèn lồng treo ở tường thành Ngọ Môn và những chiếc đèn ú cỡ lớn treo ở hệ thống Trường Lang. Đêm Hoàng cung Huế được tái hiện lại qua hình ảnh của các cung tần mỹ nữ, binh lính, quan lại với kiệu rước hoặc cưỡi ngựa với cờ hiệu trên tay làm sống dậy không gian văn hoá cung đình Huế cổ xưa. Một điểm mới khác biệt nữa là không gian Festival Huế 2006 đã mở rộng ra, không những ở Đại Nội, ở Cung An Định mà nghệ thuật trên đường phố cũng diễn ra rất đa dạng, có các nghệ thuật sắp đặt đường phố của Anh, Pháp và rất nhiều loại hình nghệ thuật khác, kể cả thơ cũng ra đường phố. Các vùng quê như làng cổ Phước Tích, chợ quê Cầu ngói Thanh Toàn, bãi tắm ở Thuận An, bãi biển ở Lăng Cô và cả vùng tiếp cận với Trường Sơn như huyện Phong Điền cũng diễn ra nhiều chương trình sôi động, hấp dẫn, thu hút sự quan tâm, thích thú của du khách. Dưới sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận tỉnh Thừa Thiên Huế, Ban Tổ chức Festival Huế 2006 đã sớm định hướng xây dựng lễ hội với không gian mở rộng tới các vùng miền trên toàn tỉnh nhằm khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và động viên sự tham gia của mọi người dân trên địa bàn toàn tỉnh. Do vậy, so với các kỳ Festival trước đây, vai trò làm chủ của người dân đối với di sản văn hóa được nâng cao rõ rệt về mặt nhận thức và hành động, làm tăng thêm vai trò cố kết cộng đồng của festival Huế. 3. NghÖ thËt tr×nh diÔn Trong các thành tố văn hoá Việt, nghệ thuật trình diễn là một nét đặc sắc phản ánh đời sống văn hoá tinh thần của người việt. Bên cạnh các lễ hội lần đầu tiên được phục dựng, tái hiện, trong suốt thời gian diễn ra festival, Huế trở thành nơi tổ chức các lễ hội văn hóa nghệ thuật của các loại hình dân ca, dân nhạc, dân vũ, trang phục truyền thống, thời trang, ẩm thực... đặc sắc và hấp dẫn từ khu vực kinh thành, lăng tẩm cổ kính đến các quảng trường, nhà văn hóa, các làng quê của Thừa Thiên- Huế. Lễ khai mạc festival Huế mở ra với chưong trình biểu diễn nhã nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc cung đình được chọn mở đầu bởi năm 2003 vừa được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Một phần bài đại nhạc Tam luân cửu chuyển rồi sau đó được mở rộng với hai bài hòa tấu tiểu nhạc Phẩm tiết, Nguyên tiêu kết hợp màn trích đoạn vở múa cung đình Bát dật trình diễn dưới quảng trường trong tiếng nhạc rộn ràng mà uyển chuyển, trầm hùng mà uy nghiêm. Phát huy điểm mạnh của âm nhạc Festival Huế 2004, âm nhạc Festival Huế 2006 khai thác tiếp giá trị của Nhã nhạc cung đình bằng việc nâng cao và kết hợp với âm nhạc cổ truyền Việt Nam, lấy đó làm âm hưởng chủ đạo, làm nền cho tất cả chương trình âm nhạc trong Festival này. Định hướng “Âm nhạc truyền thống Việt Nam vừa là nguyên mẫu, vừa mang tính giao lưu quốc tế, vừa là thể nghiệm mới của Festival Huế 2006” (Uỷ ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế, trích theo 8) của Ban tổ chức với sự mở đầu ấn tượng của nhã nhạc đã tạo được một âm hưởng khó phai về festival Huế, về văn hoá Việt Nam. Nh¹c nhạc cung đình Huế của Việt Nam còn có dịp được giao lưu với nhạc Aăk Hàn Quốc và Gagakư Nhật Bản trong những đªm diễn sau. Từ đó cho thấy sự phát triển và tiếp biến nhã nhạc từ một nguồn gốc là một loại hình âm nhạc của Trung Hoa. Với tầm vóc của một di sản văn hoá thể giới, nhã nhạc cung đình Huế đã nâng tầm văn hoá Huế lên một mức độ mới, một tâm thế mới. Sau tiết mục múa Những bông hoa của rừng dựa trên một làn điệu dân ca Pà Thẻn do các nghệ sĩ đoàn ca múa nhạc dân gian Việt Bắc biểu diễn đã khiến người xem ngẩn ngơ không chỉ vì những bộ trang phục của người Pà Thẻn và làn điệu dân ca say đắm ngọt ngào như vẻ đẹp hoang sơ của miền Tây Bắc, đến 30 cô gái trong trang phục dân tộc Tày ôm đàn tính hát Việt Bắc quê em quyến rũ đến mê hoặc. Múa Mâm vàng Cửu Long của các nghệ sĩ Nhà hát ca múa nhạc Bông Sen mang vẻ đẹp của đồng bằng Nam bộ, thì múa Tình yêu làng gốm (dân tộc Chăm) lại mang một vẻ đẹp khỏe mạnh mà lãng mạn của công việc hằng ngày gắn với nghề truyền thống... Lễ khai mạc với một chương trình nghệ thuật ngắn gọn nhưng tạo được cho du khách ấn tượng về một đất nước giàu truyền thống, đầy bản sắc văn hóa. Một trong những nét văn hóa độc đáo nhất được giới thiệu tại Festival Huế 2006 là không gian văn hóa cồng chiêng, một di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu thứ hai của Việt Nam vừa được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới, tháng 3/2006. Lần đầu tiên không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, sẽ được giới thiệu tại Festival Huế 2006, bằng cách phục dựng gần như trung thực tất cả các yếu tố "không gian" văn hóa, môi trường diễn xướng của cồng chiêng Tây Nguyên và lễ hội. Địa điểm để tổ chức chương trình này là đồi thông Thiên An thơ mộng của Huế, phục hiện nguyên bản một bản làng Ê-đê với những ngôi nhà dài truyền thống, ghế kpan, cột lễ mừng mùa M'Nông, cột lễ đâm trâu bản Đôn (Đắk Lắk), cột Gơng Drai Ê-đê, 4 dàn chiêng cổ, trống da voi, ché rượu cần và các nhạc cụ gõ truyền thống của đồng bào Tây Nguyên. Các nghệ nhân tham gia lễ hội sẽ được mời từ buôn Kõ Siêr, nhóm nghệ nhân huyện Lăk, nhóm múa dân gian M'nông và Ê-đê khoảng 36 người, nhóm Gru Bản Đôn do nghệ nhân nổi tiếng Ama Công chỉ huy gồm 7 người và đội voi 6 con của Trung tâm du lịch sinh thái Bản Đôn. Đêm khai mạc mang tên Lễ hội lửa được tổ chức ngay trước nhà dài với các chương trình diễn xướng cồng chiêng, đàn đá, diễn tấu Tưng gơr (nhạc cụ truyền thống được làm từ ống nứa), múa lửa. Đặc biệt lần đầu tiên du khách sẽ được chứng kiến dàn chiêng đồng, chiêng tre với những âm thanh độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa Tây Nguyên. Bên cạnh lễ hội lửa với không gian văn hóa cồng chiêng được phục dựng gần như nguyên bản, lần đầu tiên du khách tham dự festival cũng sẽ được thưởng thức lễ hội săn voi sôi động, kịch tính và hấp dẫn. Nếu như chương trình biểu diễn cồng chiêng Tây Nguyên giới thiệu nét văn hoá đặc thù chỉ có ở vùng đất đỏ badan thì “Lễ hội áo dài” ở Phu Văn Lâu gioái thiệu một nét văn hoá trang phục mà nhắc tới nó là người ta nghĩ ngay tới Việt Nam. Bởi từ lâu áo dài đã trở thành đặc trưng văn hoá mặc, đặc trưng tư duy và thẩm nhận thẩm mỹ cũng như đặc trưng tính cách Việt vốn chuộng nét đẹp hài hoà, kín đáo trong vẻ gợi cảm,tha thướt. Bộ sưu tập áo dài với chủ đề Màu thời gian do 10 nhà thiết kế với hơn 300 bộ áo dài mang nét đẹp cổ kính và tinh túy của Huế với những sắc thái rất riêng ra mắt khán giả ở trên 30 chiếc thuyền các loại trên dòng sông Hương thơ mộng. Khách tham dự chương trình sẽ được bố trí chỗ ngồi trên 50 chiếc thuyền rồng để thưởng thức đêm tôn vinh áo dài VN.Tham gia vào hoạt động văn hoá, festival Huế 2006 tạo cơ hội tôn vinh không chỉ là bản thân văn hoá mà cả những chủ nhân của văn hoá - những người sáng tạo và di dưỡng các giá trị văn hoá truyền thống Huế
Tài liệu liên quan