Giao nhận và vận tải hàng hóa là yêu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán hàng hóa, nó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình lưu thông, nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim ngạch buôn bán của các quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp
98 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2087 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Më §ÇU
Giao nhận và vận tải hàng hóa là yêu cầu tất yếu của trao đổi, mua bán hàng hóa, nó là một khâu không thể thiếu được trong quá trình lưu thông, nhằm đưa hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Trong kinh doanh ngoại thương, giao nhận và vận tải hàng hóa càng có vai trò quan trọng, nó ảnh hưởng tới phạm vi mặt hàng, khối lượng và kim ngạch buôn bán của các quốc gia, cũng như của các doanh nghiệp. Trước kia, giao nhận có thể do người kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà vận tải tiến hành. Khi vận tải và buôn bán quốc tế phát triển, đòi hỏi sự phân công lao động và chuyên môn hóa trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, vận tải, giao nhận. Kết quả là giao nhận tách khỏi xuất nhập khẩu và vận tải, sinh ra các tổ chức giao nhận chuyên nghiệp, phục vụ vận tải và buôn bán quốc tế. Các tổ chức này hình thành dưới dạng các hãng, công ty.
Đối với nước ta hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, việc phát triển các hoạt động giao nhận vận tải quốc tế có một ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần làm cho kinh tế đất nước phát triển nhanh mạnh hòa nhịp cùng xu thế phát triển của thời đại.
Là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực giao nhận vận tải, Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS đã có mặt trên thị trường này từ khi nó còn là một lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam. Qua một thời kỳ dài trưởng thành và phát triển, SOTRANS đã khẳng định được vị thế của mình, nâng thương hiệu SOTRANS lên tầm quốc tế. Sau một thời gian thực tập tại SOTRANS Hà Nội, nhận thấy vai trò của hoạt động giao nhận hàng hóa là đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngoại thương nên em quyết định chọn đề tài: "Hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội: thực trạng và giải pháp phát triển". Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế của SOTRANS Hà Nội giai đoạn 2000 - 2004, với mục đích đề xuất các kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế nói riêng và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung cho Chi nhánh.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên sự tổng hợp, phân tích và đánh giá các số liệu về hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Kết cấu đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Chi nhánh Công ty Kho vận miền Nam - SOTRANS Hà Nội
CH¦¥NG I
Lý LUËN chung VÒ kinh DOANH DÞCH Vô GIAO NHËN HµNG HãA QUèC TÕ
I. DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HOÁ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
1.1. Khái niệm về dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Đặc điểm của buôn bán quốc tế là người mua và người bán ở những nước khác nhau. Sau khi hợp đồng mua bán được ký kết, người bán thực hiện việc giao hàng, tức là hàng hóa được vận chuyển từ người bán sang người mua. Để cho quá trình vận chuyển đó được bắt đầu - tiếp tục - kết thúc, tức là hàng hóa đến tay người mua, cần phải thực hiện hàng loạt các công việc khác liên quan đến quá trình chuyên chở như bao bì, đóng gói, lưu kho, đưa hàng ra cảng, làm thủ tục gửi hàng, xếp hàng lên tàu, vận tải hàng hóa đến cảng đích, dỡ hàng ra khỏi tàu và giao cho người nhận hàng… Những công việc đó được gọi là giao nhận vận tải hàng hóa.
Theo quy tắc mẫu của Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA) về dịch vụ giao nhận, dịch vụ giao nhận được định nghĩa như là bất kỳ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ tư vấn hay có liên quan đến các dịch vụ trên, kể cả vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam "Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là các khách hàng)".
Như vậy, giao nhận hàng hóa quốc tế là tập hợp những nghiệp vụ, thủ tục có liên quan đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng (giữa hai quốc gia khác nhau).
1.2. Phạm vi của dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế
Trừ phi chính người gửi hàng hoặc người nhận hàng muốn trực tiếp tham gia vào bất cứ khâu thủ tục hoặc chứng từ nào, còn thông thường người giao nhận thay mặt chủ hàng lo liệu quá trình vận chuyển qua các giai đoạn khác nhau. Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý hoặc thuê dịch vụ của người thứ ba khác. Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế bao gồm bốn loại thông dụng trên thế giới hiện nay là:
1.2.1. Loại dịch vụ thay mặt người gửi hàng (người xuất khẩu)
Theo những chỉ dẫn của người gửi hàng, người giao nhận sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
Chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người chuyên chở thích hợp.
Lưu cước với người chuyên chở đã chọn.
Nhận hàng và cung cấp những chứng từ thích hợp như: giấy chứng nhận hàng của người giao nhận, giấy chứng nhận chuyên chở của người giao nhận…
Nghiên cứu những điều khoản trong tín dụng thư và tất cả những luật lệ của Chính phủ áp dụng vào việc giao hàng ở nước xuất khẩu, nước nhập khẩu cũng như ở bất kỳ nước quá cảnh nào, và chuẩn bị tất cả những chứng từ cần thiết.
Đóng gói hàng hóa (trừ phi việc này do người gửi hàng làm trước khi giao hàng cho người giao nhận) có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất của hàng hóa và những luật lệ áp dụng nếu có ở nước xuất khẩu, nước quá cảnh và nước gửi hàng đến.
Lo liệu việc lưu kho hàng hóa nếu cần.
Cân, đo hàng hóa.
Mua bảo hiểm cho hàng hóa nếu người gửi hàng yêu cầu.
Vận tải hàng hóa đến cảng, thực hiện việc khai báo hải quan, các thủ tục chứng từ liên quan và giao hàng cho người chuyên chở.
Thực hiện việc giao dịch ngoại hối, nếu có.
Thanh toán phí và những chi phí khác bao gồm cả tiền cước.
Nhận vận đơn đã ký của người chuyên chở giao cho người gửi hàng.
Thu xếp việc chuyển tải trên đường nếu cần thiết.
Giám sát việc vận tải hàng hóa trên đường gửi tới người nhận hàng thông qua những mối liên hệ với người chuyên chở và đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
Ghi nhận những tổn thất của hàng hóa, nếu có.
Giúp đỡ người gửi hàng tiến hành khiếu nại với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa, nếu có.
1.2.2. Loại dịch vụ thay mặt người nhận hàng (người nhập khẩu)
Theo những chỉ dẫn giao hàng của khách hàng, người giao nhận sẽ:
Thay mặt người nhận hàng giám sát việc vận tải hàng hóa khi người nhận hàng lo liệu vận tải hàng hóa.
Nhận và kiểm tra tất cả những chứng từ liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa…
Nhận hàng của người chuyên chở và nếu cần thì thanh toán cước.
Thu xếp việc khai báo hải quan và trả lệ phí, thuế và những phí khác cho Hải quan và những cơ quan khác.
Thu xếp việc lưu kho quá cảnh nếu cần.
Giao hàng đã làm thủ tục hải quan cho người nhận hàng.
Giúp đỡ người nhận hàng tiến hành khiếu nại đối với người chuyên chở về tổn thất hàng hóa nếu cần.
Giúp người nhận hàng trong việc lưu kho và phân phối nếu cần.
1.2.3. Dịch vụ giao nhận hàng hóa đặc biệt
Người giao nhận thường thực hiện việc giao nhận hàng bách hóa bao gồm nhiều loại thành phẩm, bán thành phẩm, hay hàng sơ chế và những hàng hóa khác giao lưu trong buôn bán quốc tế. Ngoài ra tùy theo yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác có liên quan đến các loại dịch vụ hàng hóa đặc biệt như:
Vận chuyển hàng công trình
Việc này chủ yếu là vận chuyển máy móc nặng, thiết bị... để xây dựng những công trình lớn như sân bay, nhà máy hóa chất, nhà máy thủy điện, cơ sở lọc dầu... từ nơi sản xuất đến công trường xây dựng. Việc di chuyển những hàng hóa này cần phải có kế hoạch cẩn thận để đảm bảo giao hàng đúng thời hạn và có thể cần phải sử dụng cần cẩu loại nặng, xe vận tải ngoại cỡ, tàu chở hàng loại đặc biệt... Đây là một lĩnh vực chuyên môn hóa của người giao nhận.
Dịch vụ về vận chuyển quần áo treo trên mắc
Những quần áo may mặc được chuyên chở bằng những chiếc mắc áo treo trên giá trong những container đặc biệt, và ở nơi đến được chuyển trực tiếp từ container vào cửa hàng để bày bán. Cách này loại bỏ được việc phải chế biến lại quần áo nếu đóng nhồi trong container và đồng thời tránh được ẩm ướt, bụi bẩn…
Triển lãm ở nước ngoài
Người giao nhận thường được người tổ chức triển lãm giao cho việc chuyên chở hàng đến nơi triển lãm ở nước ngoài. Người giao nhận phải tuân thủ những chỉ dẫn đặc biệt của người tổ chức triển lãm về phương thức chuyên chở được sử dụng, về nơi cụ thể làm thủ tục hải quan ở nước đến khi giao hàng triển lãm, về những chứng từ cần lập…
1.2.4. Dịch vụ khác
Ngoài những dịch vụ nêu trên, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng, người giao nhận cũng có thể làm những dịch vụ khác phát sinh trong quá trình chuyên chở và cả những dịch vụ đặc biệt như gom hàng, có liên quan đến hàng công trình, các dự án chìa khóa trao tay…
Người giao nhận cũng có thể thông báo cho khách hàng của mình về nhu cầu tiêu dùng, những thị trường mới, tình hình cạnh tranh, chiến lược xuất khẩu, những điều khoản thích hợp cần đưa vào hợp đồng mua bán ngoại thương và nói chung là tất cả những vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh của khách hàng.
2. Người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
2.1. Khái niệm về người giao nhận hàng hóa quốc tế
Người kinh doanh dịch vụ giao nhận gọi là "Người giao nhận - Freight Forwader". Người giao nhận có thể là:
Chủ hàng.
Chủ tàu.
Công ty xếp dỡ hay kho hàng.
Người giao nhận chuyên nghiệp.
Bất kỳ một người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Theo Luật Thương mại Việt Nam thì đó là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất được quốc tế chấp nhận về thuật ngữ "Người giao nhận". Ở nhiều nước khác nhau người kinh doanh giao nhận được gọi tên khác nhau như: Đại lý hải quan, Môi giới hải quan, Đại lý thanh toán, Đại lý gửi hàng và giao nhận, Người chuyên chở chính... Nhưng tất cả đều mang một tên chung trong giao dịch quốc tế là "Người giao nhận hàng hóa quốc tế" (International Freight Forwarder) mà nhiệm vụ chủ yếu của người giao nhận là bán dịch vụ giao nhận.
Đặc biệt trong những năm gần đây, người giao nhận thường cung cấp dịch vụ VTĐPT, đóng vai trò là người kinh doanh VTĐPT (MTO) và phát hành cả vận đơn vận tải.
Doanh nghiệp giao nhận là doanh nghiệp kinh doanh các loại dịch vụ giao nhận hàng hóa trong xã hội. Sản phẩm của doanh nghiệp giao nhận chính là các dịch vụ trong giao nhận mà doanh nghiệp giao nhận đóng vai trò người giao nhận.
2.2. Vai trò của người giao nhận hàng hóa trong thương mại quốc tế
Trước đây, người giao nhận chỉ làm đại lý thực hiện một số công việc do các nhà xuất nhập khẩu ủy thác như xếp dỡ, lưu kho hàng hóa, làm thủ tục giấy tờ, lo liệu vận tải nội địa, thủ tục thanh toán tiền hàng... Song cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế và tiến bộ kỹ thuật trong ngành vận tải mà dịch vụ giao nhận cũng được mở rộng hơn. Ngày nay người giao nhận đóng vai trò rất quan trọng trong thương mại và vận tải quốc tế. Người giao nhận không chỉ làm đại lý, người nhận ủy thác mà còn cung cấp các dịch vụ trọn gói về toàn bộ quá trình vận tải, phân phối hàng hóa và đóng vai trò như một bên chính - Người chuyên chở. Vai trò này thể hiện qua các chức năng sau đây:
2.2.1. Môi giới hải quan/ Người giao nhận tại biên giới
Thuở ban đầu, người giao nhận chỉ hoạt động ở trong nước với nhiệm vụ là làm thủ tục hải quan đối với hàng nhập khẩu. Sau đó, mở rộng hoạt động phục vụ cả hàng xuất khẩu và dành chỗ chở hàng trong vận tải quốc tế hoặc lưu cước với các hãng tàu theo sự ủy thác của người xuất khẩu hoặc người nhập khẩu tùy thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. Trên cơ sở được Nhà nước cho phép, người giao nhận thay mặt người xuất khẩu, người nhập khẩu để khai báo, làm thủ tục hải quan hay môi giới hải quan.
2.2.2. Làm đại lý
Trước đây, người giao nhận không đảm nhận trách nhiệm của người chuyên chở, mà chỉ hoạt động như một cầu nối giữa người gửi hàng và người chuyên chở như một đại lý của người chuyên chở hoặc của người gửi hàng. Người giao nhận nhận ủy thác từ chủ hàng hoặc từ người chuyên chở để thực hiện các công việc khác nhau như nhận hàng, giao hàng, lập chứng từ, làm thủ tục hải quan, lưu kho… trên cơ sở hợp đồng ủy thác.
Người giao nhận khi là đại lý:
Nhận ủy thác từ người chủ hàng để lo những công việc giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, làm việc để bảo vệ lợi ích của chủ hàng, làm trung gian giữa người gửi hàng với người vận tải, người vận tải với người nhận hàng, người bán với người mua.
Hưởng hoa hồng và không chịu trách nhiệm về tổn thất của hàng hóa, chỉ chịu trách nhiệm về hành vi của mình chứ không chịu trách nhiệm về hành vi của người làm thuê cho mình hoặc cho chủ hàng.
2.2.3. Lo liệu chuyển tải và tiếp gửi hàng hóa
Khi hàng hóa phải chuyển tải hoặc quá cảnh qua nước thứ ba, người giao nhận sẽ lo liệu thủ tục quá cảnh hoặc tổ chức chuyển tải hàng hóa từ phương tiện vận tải này sang phương tiện vận tải khác, hoặc giao hàng đến tay người nhận.
2.2.4. Lưu kho hàng hóa
Trong trường hợp phải lưu kho hàng hóa trước khi xuất khẩu hoặc sau khi nhập khẩu, người giao nhận sẽ lo liệu việc đó bằng phương tiện của mình hoặc thuê người khác và phân phối hàng hóa nếu có yêu cầu.
2.2.5. Người gom hàng
Dịch vụ này đã xuất hiện rất sớm ở châu Âu chủ yếu phục vụ cho vận tải đường sắt. Đặc biệt trong vận tải hàng hóa bằng container, dịch vụ gom hàng là không thể thiếu nhằm biến hàng lẻ (LCL) thành hàng nguyên container (FCL) để tận dụng sức chở của container và giảm cước phí vận tải. Khi là người gom hàng, người giao nhận có thể đóng vai trò là người chuyên chở hoặc chỉ là đại lý.
2.2.6. Người chuyên chở
Trong nhiều trường hợp, người giao nhận đóng vai trò là người chuyên chở, tức là người giao nhận trực tiếp ký hợp đồng vận tải với chủ hàng và chịu trách nhiệm chuyên chở hàng hóa từ nơi gửi hàng đến nơi nhận hàng. Người giao nhận đóng vai trò là người thầu chuyên chở (Contracting Carrier) nếu anh ta ký hợp đồng mà không trực tiếp chuyên chở. Nếu người giao nhận trực tiếp chuyên chở thì anh ta là người chuyên chở thực tế (Performing Carrier). Dù là người chuyên chở gì thì vẫn chịu trách nhiệm về hàng hóa. Trong trường hợp này, người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hóa trong suốt hành trình không những về hành vi lỗi lầm của mình mà cả những người anh ta sử dụng và có thể phát hành vận đơn.
2.2.7. Người kinh doanh vận tải đa phương thức ( MTO/CTO)
Trong trường hợp người giao nhận cung cấp dịch vụ vận tải đi suốt hay còn gọi là "Vận tải từ cửa đến cửa" thì người giao nhận đã đóng vai trò là người kinh doanh VTĐPT. MTO thực chất là người chuyên chở, thường là chuyên chở theo hợp đồng và phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa.
Với nhiều chức năng như vậy, người giao nhận thường được coi là "Kiến trúc sư của vận tải" vì người giao nhận có khả năng tổ chức quá trình vận tải một cách tốt nhất, an toàn nhất và tiết kiệm nhất.
3. Các tổ chức giao nhận quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam
3.1. Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận - FIATA
Ngay từ năm 1552, hãng giao nhận đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện ở Badiley, Thụy Sĩ, với tên gọi E. Vansai. Hãng này kinh doanh cả vận tải, giao nhận và thu phí giao nhận rất cao, khoảng 1/3 giá trị của hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của vận tải và buôn bán quốc tế, giao nhận được tách khỏi vận tải và buôn bán, dần trở thành một nghành kinh doanh độc lập. Sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty giao nhận dẫn đến sự ra đời các Hiệp hội giao nhận trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nước. Trên phạm vi quốc tế hình thành các Liên đoàn giao nhận như: Liên đoàn những người giao nhận Bỉ, Hà Lan, Mỹ… đặc biệt là "Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận", gọi tắt là FIATA.
Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận (FIATA), thành lập năm 1926 là một tổ chức giao nhận, vận tải lớn nhất thế giới. FIATA là một tổ chức phi chính trị, tự nguyện, là đại diện của 35.000 công ty giao nhận ở 130 quốc gia trên thế giới. Thành viên của FIATA là các hội viên chính thức và hội viên hợp tác. Hội viên chính thức là Liên đoàn giao nhận của các nước, còn hội viên hợp tác là các công ty giao nhận riêng lẻ.
FIATA được sự thừa nhận của các cơ quan thuộc Liên hợp quốc như: Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Hội nghị của Liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), Ủy ban châu Âu của Liên hợp quốc (ECE) và ESCAP…
FIATA cũng được các tổ chức liên quan đến buôn bán và vận tải như: Phòng thương mại quốc tế, Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (IATA), các tổ chức của người chuyên chở và chủ hàng thừa nhận.
Mục tiêu chính của FIATA là bảo vệ và tăng cường lợi ích của người giao nhận trên phạm vi quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ giao nhận, liên kết nghề nghiệp, tuyên truyền dịch vụ giao nhận vận tải, xúc tiến quá trình đơn giản hóa và thống nhất chứng từ và các điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn nhằm cải tiến chất lượng dịch vụ của hội viên, đào tạo nghiệp vụ ở trình độ quốc tế, tăng cường các quan hệ phối hợp giữa các tổ chức giao nhận với chủ hàng và người chuyên chở. Phạm vi hoạt động của FIATA rất rộng, thông qua hoạt động của hàng loạt Tiểu ban:
Tiểu ban về các quan hệ xã hội.
Tiểu ban nghiên cứu về kỹ thuật vận chuyển đường ô tô, đường sắt, đường hàng không…
Ủy ban về vận chuyển đường biển và vận tải đa phương thức.
Tiểu ban luật pháp, chứng từ và bảo hiểm.
Tiểu ban về đào tạo nghề nghiệp.
Ủy ban về đơn giản hóa thủ tục buôn bán.
Tiểu ban về hải quan.
Hiện nay nhiều công ty giao nhận của Việt Nam đã trở thành hội viên hợp tác của FIATA.
3.2. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam - VIFFAS
Những năm 60 thế kỷ XX, các tổ chức giao nhận quốc tế ở Việt Nam mang tính chất phân tán. Các đơn vị xuất nhập khẩu tự đảm nhận việc tổ chức chuyên chở hàng hóa của mình, vì vậy các công ty xuất nhập khẩu đã thành lập riêng phòng kho vận, chi nhánh xuất nhập khẩu, trạm giao nhận ở các cảng, ga đường sắt liên vận.
Để tập trung đầu mối quản lý, chuyên môn hóa khâu vận tải, giao nhận, năm 1970 Bộ Ngoại thương (nay là Bộ Thương mại) đã thành lập hai tổ chức giao nhận:
Cục Kho vận kiêm Tổng công ty giao nhận ngoại thương, trụ sở ở Hải Phòng.
Công ty giao nhận đường bộ, trụ sở tại Hà Nội.
Năm 1976, Bộ Ngoại thương đã sáp nhập hai tổ chức trên thành lập một công ty giao nhận thống nhất là Tổng công ty giao nhận và kho vận ngoại thương (Vietrans). Trong thời kỳ bao cấp, Vietrans là cơ quan duy nhất được phép tiến hành tổ chức giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu trên cơ sở ủy thác của các đơn vị xuất nhập khẩu.
Những năm gần đây, kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu không còn do Vietrans độc quyền nữa mà do nhiều cơ quan, tổ chức khác tham gia, trong đó nhiều chủ hàng ngoại thương lại tự đảm nhận công tác giao nhận.
Do sự phát triển mạnh mẽ của thị trường giao nhận Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi của các nhà giao nhận, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) đã được thành lập năm 1994 và đã trở thành hội viên chính thức của FIATA trong năm đó. Cho đến nay, VIFFAS đã có 76 thành viên. Ngoài ra, đến đầu năm 2005 đã có hơn 30 công ty giao nhận - vận tải của Việt Nam được công nhận là hội viên hợp tác của FIATA.
4. Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế tại Việt Nam
Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, cùng với sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại quốc tế, cá