Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 15 năm thực hiện chính sách mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo cho nền kinh tế nước nhà có sự chuyển biến lớn, có những bước đi phù hợp, đúng đắn để tồn tại và phát triển đi lên hội nhập cùng nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, song bên cạnh đó nó cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách lớn để thích nghi với môi trường mới- môi trường cạnh tranh gay gắt đang diễn ra trên thế giới và trong khu vực để giữ cho quốc gia mình tồn tại và phát triển được.
85 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 15 năm thực hiện chính sách mở cửa, chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã tạo cho nền kinh tế nước nhà có sự chuyển biến lớn, có những bước đi phù hợp, đúng đắn để tồn tại và phát triển đi lên hội nhập cùng nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, song bên cạnh đó nó cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách lớn để thích nghi với môi trường mới- môi trường cạnh tranh gay gắt đang diễn ra trên thế giới và trong khu vực để giữ cho quốc gia mình tồn tại và phát triển được.
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận.
Mục đích của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm tối đa hoá hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư, thực hiện giảm chi phí đầu tư theo qui mô và tìm kiếm nguồn nhân lực, lợi thế từ nước ngoài... Nhờ phát triển kinh doanh ra thị trường quốc tế các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tăng số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu, tận dụng chi phí lao động rẻ, chi phí năng lượng, nguyên liệu thấp ... Cho phép doanh nghiệp có thêm một số chiến lược cạnh tranh với phạm vi đa quốc gia mà các doanh nghiệp kinh doanh nội địa không có được. Hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Đề tài được chia làm 3 chương với các nội dung sau:
Chương I: Những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu
Chương II: Thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty
Chương III: Một số phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty
Mặc dù bài viết này có nhiều cố gắng song do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tế nên bài viết không thể tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Em rất mong được sự góp ý bổ sung của thầy cô và bạn bè. Nhân đây em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới T.S Phan Kim Chiến cùng toàn thể cán bộ công nhân viên phòng kinh doanh mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Hà Nội ngày 20 tháng 5 năm 2002
Sinh viên: Vũ Thị Khuyên
Chương I
một số vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các cá nhân, tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận.
Mục đích của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm tối đa hoá hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đầu tư, thực hiện giảm chi phí đầu tư theo qui mô và tìm kiếm nguồn nhân lực, lợi thế từ nước ngoài... Nhờ phát triển kinh doanh ra thị trường quốc tế các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tăng số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu, tận dụng chi phí lao động rẻ, chi phí năng lượng, nguyên liệu thấp ... Cho phép doanh nghiệp có thêm một số chiến lược cạnh tranh với phạm vi đa quốc gia mà các doanh nghiệp kinh doanh nội địa không có được. Hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá.
Vậy xuất khẩu hàng hoá là gì? nó có vai trò như thế nào trong nền kinh tế quốc dân?
I. Khái niệm, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân .
1. Khái niệm về hoạt động xuất khẩu :
Hoạt động xuất khẩu là quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia và lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. sự trao đổi mua bán hàng hoá là một hình thức của các mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt của từng quốc gia.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế xét có điều kiện không gian và thời gian. Nó không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài đất nước nhằm thu được ngoại tệ, những lợi ích kinh tế xã hội, thúc đẩy hoạt động sản xuất hàng hoá trong nước phát triển, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế và từng bước nâng cao đời sống nhân dân. Các mối quan hệ này xuất hiện khi có sự phân công lao động quốc tế và chuyên môn hoá sản xuất.
Chuyên môn hoá đã thúc đẩy nhu cầu mậu dịch nhưng ngược lại, một quốc gia sẽ không tiến hành chuyên môn hoá sản xuất nếu không chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động trao đổi hàng giữa các quốc gia. Mà hoạt động trao đổi hàng hoá này lại có ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ của mỗi cá nhân hay quốc gia. Khi chưa diễn ra hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ thì cá nhân cũng như tổ chức phải tự thoả mãn lấy nhu cầu của mình nên nhu cầu bị bó hẹp, không kích thích hoạt động hàng hoá phát triển, kéo theo nền kinh tế trong nước chậm phát triển.
Cùng với sự tiến bộ của khoa học công nghệ và tác động của các qui luật kinh tế khách quan,phạm vi chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng mở rộng nên sự ràng buộc giữa các quốc gia ngày càng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt xuất khẩu phát triển. Chuyên môn hoá quốc tế là biểu hiện sinh động của qui luật lợi thế so sánh. Qui luật này nhấn mạnh sự khác nhau về chi phí sản xuất, qua đó là chìa khoá của các phương thức thương mại. Qui luật này cũng khẳng định nếu mỗi nước chuyên môn hoá vào các sản phẩm mà nước đó có lợi thế tương đối hay hiệu quả sản xuất so sánh cao nhất thì thương mại có lợi cho cả hai bên.
Sự khác nhau về điều kiện sản xuất cũng giải thích phần nào việc buôn bán giữa các nước, nên sẽ có lợi khi mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất những mặt thích hợp cho xuất khẩu. Chuyên môn hoá qui mô lớn làm cho chi phí sản xuất giảm, tăng cường hiệu quả tuyệt đối ở cả hai nước là giống nhau, buôn bán có thể diễn ra do sự khác nhau về nhu cầu.
Hoạt động xuất khẩu nước ta là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu. Do vậy, Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, trong đó lĩnh vực quan trọng là vật tư và thương mại hàng hoá dịch vụ đối với nước ngoài. Đó là chủ trương hoàn toàn phù hợp với thời đại và xu hướng phát triển của thế giới trong những năm gần đây.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu
Hoạt động xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng hoá của quốc gia khác đối với quốc gia chủ thể và nó chỉ ra những lĩnh vực, sản phẩm có thể chuyên môn hoá được, những công nghệ và tư liệu sản xuất ở trong nước còn thiếu để sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quốc tế. Vì thế, nó đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm mục tiêu phát triển đất nước mở rộng quan hệ đối ngoại. Xuất khẩu có những vai trò sau:
2.1) Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ quốc tế trong nước.
Xuất khẩu vừa mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại vừa làm cho nền kinh tế trong nước gắn chặt với phân công lao động quốc tế . Thông thường họat động xuất khẩu ra đời sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại nên nó thúc đẩy các quan hệ này phát triển .Như xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư, vận tải quốc tế ...phát triển. Đến lượt mình, các quan hệ kinh tế đối ngoại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
2.2)Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.
Vì quá trình công nghiệp hoá đất nước phát triển, ổn định nền kinh tế đòi hỏi phải có một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị, kỹ thuật, vật tư, công nghệ tiên tiến...Mà nguồn vốn dùng cho nhập khẩu hình thành từ :
Vay nợ, viện trợ.
Liên doanh, đầu tư từ nước ngoài.
Thuế
Xuất khẩu.
Từ các hoạt động du lịch, dịch vụ.
Trong các nguồn trên, thì chỉ có xuất khẩu là nguồn chính cho nhập khẩu và quyết định đến qui mô, tốc độ của hoạt động nhập khẩu .
2.3) Xuất khẩu góp phần tạo ra việc làm và cải thiện đời sống cho nhân dân.
Hoạt động xuất khẩu phát triển tạo cơ hội mở rộng sản xuất, thu hút nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng phục vụ đời sống của nhân dân.
2.4)Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại.
Thay đổi cơ cấu kinh tế và tiêu dùng một cách có lợi nhất là một trong những thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, sự chuyển dịch cơ cấu này còn chịu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu. Các ảnh hưởng đó được xem xét theo các bước sau:
- Xuất khẩu những sản phẩm trong nước ra nước ngoài, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và có xu hướng phát triển theo những ngành đang chiếm ưu thế xuất khẩu.
- Căn cứ vào nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm cần thiết. Đây là một ảnh hưởng tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi, như sự phát triển của hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ sẽ kéo theo sự phát triển của các làng nhề thủ công mỹ nghệ.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, khai thác tối đa sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác,xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào trong nước nhằm hiện đại hoá nền kinh tế.
-Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trưòng thế giới về giá cả và chất lượng sản phẩm. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi phải tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu của thị trường.
-Hoạt động xuất khẩu còn đồi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản phẩm.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu
Như ta biết, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do đó khi tiến hành hoạt động này cần phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, nghiên cứu rõ ràng và chính xác các yếu tố ảnh hưởng đến nó. Hoạt động xuất khẩu diễn ra chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau.
3.1. Yếu tố doanh nghiệp
Hoạt động xuất khẩu diễn ra khi có sự tham gia của các chủ thể ở các quốc gia khác nhau. ở mỗi quốc gia đều có bộ luật riêng, trình độ luật pháp hành pháp, tư pháp, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế ở các quốc gia đó. Các yếu tố pháp luật này không chỉ chi phối tới tất cả các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Như vậy để có thể tham gia vào hoạt động thương mại quốc tể thì trước hết doanh nghiệp phải hiểu rõ môi trường luật pháp ở chính quốc gia đó và quốc gia của đối tác cùng các thông lệ quốc tế hiện hành vì chính các yếu tố đó có thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng thị trường, tạo ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp để tăng doanh số bán hàng, tăng lợi nhuận kinh doanh, khai thác được các cơ hội trong kinh doanh, mở rộng hoạt động kinh doanh trên thị trường thế giới.
3.2. Yếu tố chính trị
Chính trị là tổng thể các quan điểm, các phương pháp hoạt động thực tế nhất định của Đảng, Nhà nước, của giai cấp. Nó bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Vì vậy, chính trị cũng có thể cản trở quá trình quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh phát triển theo hướng nhất định.
Việc dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan thiết lập các quan hệ là sự tác động mang tính tích cực, làm tăng cường sự liên kết các thị trường và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của hoạt động xuất khẩu.
Chính sách của chính phủ đặt ra để bảo vệ các doanh nghiệp trong nước và thị trường nội địa khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài với các chính sách kinh tế có lợi cho doanh nghiệp trong nước bằng các hình thức như hàng rào thuế quan.
Nhưng ngược lại sự không ổn định về chính trị sẽ làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế và bóp nghẹt các mối giao lưu về công nghệ. Nhiều nơi trên thế giới hiện nay có sự bất ổn về chính trị và cuộc chiến tranh sắc tộc diễn ra mạnh mẽ, tại đây sự an toàn trong kinh doanh là không cao hoặc không có. Điều này đã và đang sẽ buộc các doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động kinh doanh trên thị trường và phân bổ lại nguồn lực sang thị trường khác có độ an toàn cao hơn.
Với các yếu tố chính trị có ảnh hưởng đến việc mở rộng phạm vi tiêu thụ sản phẩm và mở ra các cơ hội kinh doanh mói cho các doanh nghiệp. Song chính các yếu tố chính trị có thể lại là cái rào chắn giới hạn sự tự do trên thị trường thế giới cuả các doanh nghiệp .
3.3.Yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế bao gồm:
- Chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ
- Yếu tố lạm phát
- Thuế quan
Các yếu tố trên có tác động xuất khẩu ở cả tầm vi mô và vĩ mô trong đó điển hình là nhân tố thuế quan. Thuế quan xuất khẩu là loại thuế được đánh vào mỗi đơn vị hàng sản xuất, nó làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước. Vì vậy, thuế quan đã ảnh hưởng đến hạn ngạch xuất khẩu hàng hoá .
Thuế quan là một công cụ quản lí kinh tế lâu đời nhất của nhà nước,nó đem lại nguồn thu ngân sách cho nhà nước. Nhưng thuế quan xuất khẩu gây nên sự khó cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước. Thuế quan xuất khẩu còn gây ra xu hướng làm hạ thấp tương đối giá cả trong nước hoặc làm thay đổi một cách bất lợi cho các loại hàng hoá này. Vì vậy, nhà nước nên có một chính sách thuế xuất khẩu hợp lí đối với từng mặt hàng, tạo điều kiện thúc đẩy xuất khẩu phát triển .
Trên thế giới ngày nay với sự đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ để ngoại thương phát triển thì các công cụ về thuế quan phải mềm dẻo và linh hoạt, xoá bỏ dần hàng dào thuế quan và phi thuế quan, tạo ra các liên kết kinh tế quốc dân ở tầm khu vực và trên thế giới.
3.4 Yếu tố về khoa học công nghệ
Cùng với sự phát triển loài người, khoa học công nghệ đã đạt được những bước tiến vượt bậc. Các thành tựu khoa học công nghệ được áp dụng trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội, trong đó hoạt động xuất khẩu hàng hoá đã thu được nhiều lợi ích từ việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ . Các yếu tố khoa học công nghệ có mối quan hệ khá chặt chẽ vói các yếu tố kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Khi khoa học công nghệ phát triển sẽ tạo cho doanh nghiệp thực hiện chuyên môn hoá ở tầm cao hơn, tay nghề ngày một tích luỹ.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho cả doanh nghiệp có được sự nhậy bén trong việc nhận biết các thông tin, sự kiện đang xẩy ra xung quanh giúp cho doanh nghiệp tìm hiểu và nắm bắt chíng xác về bạn hàng, khách hàng, đối tác làm ăn và các phương diện, từ đó có thể hạn chế được sự rủi ro trong kinh doanh. Mặt khác doanh nghiệp có thể áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào việc thiết kế và cải tiến sản phẩm, phân tích và dự báo xu thế biến động của thị trường và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi có sự đào tạo chuyên môn sâu tới mức chuyên môn hoá cao hơn để tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm, giữ được thế cạnh tranh trên thị trường.
3.5. Yếu tố văn hoá - xã hội
Văn hoá - Xã hội là tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm ...khắc hoạ nên bản sắc văn hoá của một gia đình, cộng đồng, làng xóm, vùng miền, quốc gia, xã hội....Văn hoá chính là toàn bộ của cải vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong lịch sử để vươn tới cái đúng,cái đẹp,cái hợp lí và sự phát triển bền vững, an toàn cho cộng đồng, nhân loại, xã hội. Nói cách khác văn hoá là nền tảng tinh thần của XH, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Do đó văn hoá là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ tới nhu cầu thị trường, nó có tính chất quyết định tới hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại.
Hoạt động xuất khẩu được coi là hoạt động hết sức phức tạp vì nó chịu sự tác động của nền văn hoá xã hội của nhiều quốc gia có quan hệ ngoại thương. Vì vậy để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm buộc các doanh nghiệp phải quan tâm nghiên cứu sản xuất các sản phẩm phù hợp với các yếu tố văn hoá của quốc gia địa phương đó.
3.6. Các yếu tố về tỉ giá hối đoái
Trong hoạt động thương mại quốc tế thường lấy ngoại tệ làm phương tiện thanh toán. Do đó, tỉ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu vì tỉ giá hối đoái được dùng để tính giá trị giữa các đồng tiền khác nhau nên ảnh hưởng trực tiếp đến nhà xuất khẩu và trở thành một trong các nhân tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doãnh xuất nhập khẩu .
Nếu khi một hợp đồng xuất khẩu được kí với đồng tiền thanh toán là đồng tiền của bên nhập với một thời hạn thanh toán nhất định. Khi đến hạn thanh toán, đồng tiền của bên tăng giá so với bên nhập khi đó bên xuất sẽ mất đi một khoản thu nhập đáng kể do sự biến động của tỉ giá hối đoái giữa hai đồng tiền và ngược lại. Do đó, lợi ích của hai bên đều bị ảnh hưởng. Hoạt động thương mại tiếp tục hay ngừng trệ điều này tuỳ thuộc vào tỉ giá hối đoái giữa hai đồng tiền thanh toán có làm lợi ích của họ được bảo đảm hay không được bảo đảm.
Chính sách tỉ giá hối đoái cân bằng linh hoạt và được điều chỉnh theo giá cả thị trường là chính sách hoàn toàn đáp ứng được hai bên xuất và nhập khẩu.Vì vậy khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp cần lưu ý đến yếu tố tỉ giá hối đoái để quyết định có kí hợp đồng hay không.
3.7. Các yếu tố thuộc về doanh nghiệp
3.7.1. Ban lãnh đạo
Đây là bộ phận “đầu não” của doanh nghiệp, là nơi xây dựng chiến lược kinh doanh cho doanh nghiệp để đề ra các mục tiêu, chiến lược phát triển công ty , đồng thời giám sát, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện kế hoạch đề ra. Đồng thời họ cũng là người gánh vác trách nhiệm kinh doanh trực tiếp trước cơ quan nhà nước trực thuộc địa phương mà doanh nghiệp đó có trụ sở chính.Vì vậy, trình độ năng lực quản lí của ban lãnh đạo có ảnh hưởng trực tiếp tới toàn bộ quá trình hoạt động kinh doanh cuả doanh nghiệp .
3.7.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của doanh nghiệp
Một cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ loại trừ các “nhiễu” trong sự truyền tải thông tin từ ban lãnh đạo tới các thành viên trong công ty. Cơ cấu tổ chức này có thể sửa đổi, bổ xung lượng thông tin kịp thời, chính xác, đúng vị trí . Đồng thời cơ cấu tổ chức cũng ảnh hưởng đến việc ra quyết định, giúp ban lãnh đạo đưa ra nhưng quyết định khách quan hợp lý.
Như vậy, cơ cấu tổ chức không những ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định kinh doanh mà còn ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
3.7.3. Nguồn lực trong doanh nghiệp
Các nguồn lực trong doanh nghiệp gồm nguồn lực con người, nguồn vốn kinh doanh, nguồn tài sản cố định như các thiết bị văn phòng, máy móc, phân xưởng...
Hoạt động xuất khẩu chỉ có thể tiến hành khi đã có sự nghiên cứu về thị trường như: nghiên cứu hàng hoá, bạn hàng đối tác, phương thức giao dịch, đàm phán kí kết hợp đồng. Do đó vấn đề là phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh có chuyên môn trong lĩnh vực này, họ có khả năng phân tích và giải quyết các thủ tục hành chính trong xuất khẩu. Đồng thời doanh nghiệp vẫn cần có một đội ngũ cán bộ có khả năng kinh nghiệm trong việc thu gom đóng gói bảo quản hàng hoá, kết hợp với đội ngũ cán bộ thị trường để tìm kiếm bạn hàng, quảng cáo tạo ra một sức mạnh thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.
3.8 Các yếu tố thuộc về sản phẩm
Trước đây các doanh nghiệp thường sản xuất những cái gì mà mình có và theo đơn đặt hàng, chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nước. Cùng với sự thay đổi của thời gian, nền kinh tế đã chuyển sang cơ chế thị trường muốn được tồn tại và phát triển doanh nghiệp cần phải quán triệt việc sản xuất cái gì người mua cần. Hoạt động xuất khẩu cũng đòi hỏi như vậy, không thể xuất khẩu những gì mình sản xuất được, mà xuất khẩu những cái gì mà thị trường cần xuất khẩu chỉ có thể phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ khi sản phẩm xuất khẩu đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của khách hàng.
4. Các phương thức chủ yếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu
4.1 Giao dịch thông thường
Là giao dịch mà người mua (hoặc người bán) thoả thuận, bàn bạc trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại… với người bán (hoặc người mua) về hàng hoá, mẫu mã sản phẩm, số lượng, giá cả, điều kiện giao dịch