Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, sự phát triển của khoa học công nghệ đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh quốc tế. Hoạt đông buôn bán xuất nhập khẩu diễn ra sôi động giữa các quốc gia. Mặc dù trên thế giới các nước đều muốn tăng cường xuất siêu, hạn chế nhập siêu, nhưng nhập khẩu vẫn là một hoạt động tất yếu và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia
67 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
2.2.3 - Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí trong những năm gần đây: 40
2.3 – Tình hình nhập khẩu của EMJ từ 2005 - 2007 41
2.3.1 - Kim ngạch nhập khẩu. 41
2.3.2 - Mặt hàng nhập khẩu của công ty. 43
2.3.3 - Thị trường nhập khẩu của công ty. 44
2.3.4 - Hình thức nhập khẩu. 45
2.4 - Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của EMJ. 47
2.4.1 - Thực trạng công tác nghiên cứu thị trường phục vụ hoạt động nhập khẩu của EMJ. 47
2.4.2 - Thực trạng công tác xây dựng chiến lược phục vụ nhập khẩu của EMJ. 48
2.4.3 -Thực trạng thực hiện các nghiệp vụ nhập khẩu của EMJ. 48
2.5 – Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của EMJ. 51
2.5.1 - Mặt mạnh. 51
2.5.2 - Mặt yếu. 51
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI EMJ 53
3.1 – Phương hướng nhập khẩu của công ty trong giai đoạn 2008 – 2010. 53
3.1.1 - Mục tiêu về kim ngạch nhập khẩu. 53
3.1.2 - Về thị trường nhập khẩu. 53
3.1.3 - Về mặt hàng nhập khẩu. 53
3.1.4 - Về phương thức bán hàng 54
3.1.5 - Chiến lược phát triển con người. 54
3.2 – Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ. 55
3.2.1 - Những giải pháp chủ yếu. 55
3.2.2 - Điều kiện thực hiện các giải pháp. 61
KẾT LUẬN 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 1.2.3: Quy trình triển khai thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu của doanh nghiệp. 15
Sơ đồ 2.1.5: Cơ cấu tổ chức của EMJ 29
Bảng 2.2.1a: Danh mục mặt hàng kinh doanh chính của EMJ: 32
Bảng 2.2.1b: Tình hình thị trường tiêu thụ khu vực miền Bắc 36
Bảng 2.2.2: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn 39
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu lao động của EMJ theo trình độ học vấn 40
Bảng 2.2.3 : Kết quả kinh doanh của EMJ trong những năm gần đây 41
Bảng 2.3.1: Kim ngạch xuất nhập khẩu của EMJ 2005 – 2007 42
Bảng 2.3.2: Cơ cấu hàng nhập khẩu của công ty 2005 – 2007 43
Bảng 2.3.3 : Thị trường nhập khẩu của EMJ 44
Bảng 2.3.4: Kim ngạch nhập khẩu của EMJ theo phương thức nhập khẩu 46
Biểu đồ 2.3.4: Kim ngạch nhập khẩu của EMJ theo phương thức nhập khẩu 46
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ngày nay, với xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, sự phát triển của khoa học công nghệ đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động kinh doanh quốc tế. Hoạt đông buôn bán xuất nhập khẩu diễn ra sôi động giữa các quốc gia. Mặc dù trên thế giới các nước đều muốn tăng cường xuất siêu, hạn chế nhập siêu, nhưng nhập khẩu vẫn là một hoạt động tất yếu và không thể thiếu đối với mỗi quốc gia. Ở cấp độ doanh nghiệp, đặc biệt là với doanh nghiệp thương mại nói riêng thì hoạt động nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng bởi nó giúp doanh nghiệp có nguồn hàng để bán, đa dạng hoá và bổ sung những mặt hàng mà doanh nghiệp muốn kinh doanh nhưng trong nước chưa có điều kiện để sản xuất.
Với tầm quan trọng của hoạt động nhập khẩu, trên cơ sở nghiên cứu lý luận đã được học tại trường, kết hợp với cơ sở thực tiễn quan sát được tại Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện & Cơ khí ( EMJ ) cùng với sự hướng dẫn của thầy giáo – PGS. TS Nguyễn Xuân Quang, sự giúp đỡ của các anh chị tại phòng kinh doanh nói riêng và của công ty nói chung nên em chọn đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình là: “Hoạt động nhập khẩu của Công ty cổ phần tập đoàn vật liệu điện và cơ khí - Thực trạng và giải pháp ”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu để phân tích, đánh giá hoạt động nhập khẩu của EMJ trong thời gian qua và từ đó đưa ra một ssố giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ trong thời gian tới.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài :
Hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại EMJ.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nhập khẩu là một hoạt động phức tạp và rộng lớn. Tuy nhiên do thời gian và trình độ của bản thân còn hạn chế nên trong đề tài này em chỉ tập trung vào hoạt động nhập khẩu của doanh ngiêp thương mại, cụ thể ở đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại EMJ.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Kết hợp nhiều phương pháp như: tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để thấy sự tăng giảm của các chỉ tiêu trong từng thời kỳ.
6. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận chuyên đề gồm 3 chương chính:
Chương I: Lý luận cơ bản về hoạt động nhập khẩu của doanh nghiêp thương mại.
Chương II: Phân tích thực trạng hoạt động nhập khẩu của EMJ từ 2005 – 2007.
Chương III:Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu tại EMJ.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1.1 – Vai trò và bản chất của nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại.
1.1.1 - Vai trò của nhập khẩu trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Đặc trưng của doanh nghiệp thương mại là mua để bán, mua ở nơi này bán ở nơi khác, mua của người này bán cho người khác, nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Do đó việc mua hàng từ các đối tác, các nhà cung cấp trong nước cũng như việc nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế nước ngoài có ý nghĩa quan trọng đối với công tác tạo nguồn hàng của doanh nghiệp thương mại.
Như vậy, vai trò của nhập khẩu đối với doanh nghiệp thương mại thể hiện ở những điểm sau:
- Thứ nhất: Giúp doanh nghiệp có nguồn hàng khi những loại hàng hoá đó trong nước không thể sản xuất được.
- Thứ hai: Việc nhập khẩu hàng hoá giúp doanh nghiệp thương mại có thể đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ kinh doanh cùng ngành nghề.
- Thứ ba: Nếu doanh nghiệp có chiến lược đúng đắn, phù hợp như tìm được đối tác tốt, nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước có nhu cầu với giá cả hợp lý thì khả năng kiếm được lợi nhuận sẽ lớn, từ đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thương mại sẽ được nâng cao.
1.1.2 - Bản chất của hoạt động nhập khẩu ở doanh nghiệp thương mại.
Thực chất hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp thương mại là việc doanh nghiệp mua hàng hoá từ các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài theo nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, cũng như nhu cầu của thị trường trong nước nhằm tìm kiếm lợi nhuận.
1.1.3 – Các hình thức nhập khẩu chủ yếu của doanh nghiệp.
a. Nhập khẩu trực tiếp.
Theo phương thức nhập khẩu này, các doanh nghiệp trực tiếp giao dịch với nhau. Việc mua và bán hàng không ràng buộc với nhau, bên mua chỉ có thể mua mà không thể bán và ngược lại. Bên bán ( bên xuất khẩu) và bên mua ( bên nhập khẩu) thường phải trải qua quá trình giao dịch và thương lượng cới nhau về các điều kiện giao dịch, khi các điều kiện được hai bên nhất trí thì có thể tiến tới kí kết hợp đồng.
Theo phương thức này doanh nghiệp sẽ phải tự tiến hành nghiên cứu kỹ thị trường, đối tác trong nước và ngoài nước cũng như các yếu tố về giá cả, luật pháp, tập quán kinh doanh… và phải tự tính toán các chi phí, chịu trách nhiệm về mọi rủi ro sảy ra về nguồn vốn mình bỏ ra. Thông thường doanh nghiệp chỉ phải lập một hợp đồng ngoại thương với đố tác nước ngoài, còn hợp đồng bán hàng trong nước sau khi nhập khẩu hàng hoá sẽ được tiến hành riêng rẽ sau đó.
Ưu điểm của nhập khẩu theo phương thức trực tiếp là nó cho phép người nhập khẩu nắm được chính xác thông tin về các nguồn cung trên thị trường. Nhưng có nhược điểm là chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài cao nên các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường không thể sử dụng phương thức nhập khẩu này. Ngoài ra, để thực hiện tốt giao dịch theo phương thức này đòi hỏi phải có đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi.
b. Nhập khẩu uỷ thác.
Đây là hình thức nhập khẩu được thực hiện nhò sự giúp đỡ của bên thứ ba, người thứ ba này sẽ được hưởng một khoản tiền nhất định. Người trung gian phổ biến hiện nay là đại lý và môi giới.
Hình thức này được áp dụng khi một doanh nghiệp muốn nhập khẩu hàng hoá nào đó nhưng không đủ điều kiện để nhập khẩu các mặt hàng đó, họ sẽ uỷ thác cho doanh nghiệp khác có chức năng tiến hành hoạt động nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Doanh nghiệp nhận uỷ thác ( bên thứ ba) sẽ phải trực tiếp tiến hành đàm phán với doanh nghiệp nước ngoài để nhập khẩu hàng theo yêu cầu của bên uỷ thác. Theo phương thức này doanh nghiệp nhập khẩu sẽ phải thực hiện hai hợp đồng : Hợp đồng mua bán hang hoá với đối tác nước ngoài và hợp đồng nhận uỷ thác của bên uỷ thác.
Vì phương thức này được thông qua bên thứ ba ( các trung gian ), đó là những người am hiểu về thị trường, pháp luật, tập quán buôn bán của địa phương nên họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán và hạn chế được những rủi ro cho nhà nhập khẩu. Họ thường có cơ sở vật chất, nghiệp vụ nhất định nên doanh nghiệp sẽ giảm bớt được chi phí vận tải, tìm hiểu thị trường…
Tuy nhiên phương thức nhập khẩu này là làm mất sự liên hệ trực tiếp của nhà nhập khẩu với thị trường và phải chia sẻ một phần lợi nhuận cho các trung gian.
c. Nhập khẩu liên doanh.
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp ( trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đưa ra các biện pháp liên quan đến nhập khẩu để hai bên đều đạt được lợi ích.
Với hình thức nhập khẩu này doanh nghiệp không tự chủ như nhập khẩu trực tiếp nhưng lại chịu ít rủi ro hơn vì vốn, trách nhiệm, quyền hạn đều được phân bổ cho các bên. Trên thực tế bên nào có nghiệp vụ, kinh nghiệm, bạn hàng giao dịch sẽ có quyền nhập khẩu trực tiếp.
Trong thực tế ở nước ta hiện nay nhiều doanh nghiệp muốn tham gia nhập khẩu trực tiếp để giám sát nhưng không đủ hoàn toàn mọi điều kiện nên phương thức này vẫn thường được sử dụng.
d. Nhập khẩu tái xuất.
Đây là hình thức nhập khẩu hàng hoá vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ mà để xuất khẩu trở lại sang nước khác. Mục đích của phương thức này là mua rẻ hàng hoá ở nước này , bán đắt ở nước khác và thu số ngoại tệ lớn hơn so với số vốn bỏ ra lúc đầu. Vì vậy phương thức này luôn thu hút 3 đối tác ở 3 nước khác nhau tham gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu và nước tái xuất.
Khi thực hiện nhập khẩu theo phương thức này, doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toàn bộ chi phí từ tổ chức, giao dịch đàm phán, gặp gỡ, cho đến các chi phí giao nhận hàng, với mỗi đối tác xuất khẩu và đối tác nhập khẩu để đảm bảo sao cho hoạt động mua bán có lãi. Doanh nghiệp nước tái xuất sẽ phải ký 2 hợp đồng: hợp đồng xuất khẩu và hợp đồng nhập khẩu và không phải chịu thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng kinh doanh.
e. Buôn bán đối lưu:
Đây là phưong thức giao dịch mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, nhà nhập khẩu đồng thời là nhà xuất khẩu, lượng hàng trao đổi với nhau có giá trị tương đương. Ở phương thức này, mục đích của xuất khẩu không phải là để thu ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương.
f. Đấu giá quốc tế:
Đây là phương thức mua bán đặc biệt, được tổ chức một cách thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tại đó, ngườu bán ( nhà xuất khẩu ) trưng bày hàng hoá, giới thiệu hàng hoá để người mua ( nhà nhập khẩu ) xem xét, đánh giá và trả giá. Cuối cùng hàng sẽ được bán cho người trả giá cao nhất.
g. Đấu thầu quốc tế:
Là phương thức giao dịch đặc biệt, trong đó người mua ( tức người gọi thầu ) công bố trước điều kiện mua hàng để người bán ( người dự thầu ) báo giá mình muốn bán, sau đó người mua sẽ chọn mua của người bán giá rẻ nhất với điều kiện tín dụng phù hợp nhất.
Tóm lại, trong hoạt động xuất nhập khẩu có nhiều phương thức giao dịch, mỗi phương thức đều có những đặc thù riêng, có ưu nhược diểm khác nhau. Để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, mỗi doanh nghiệp cần tuỳ vào điều kiện kinh doanh của mình mà có sự lựa chọn các phương thức giao dịch thích hợp đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất cho mình.
1.2 – Các nội dung cơ bản trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp
1.2.1 - Nghiên cứu thị trường tìm khiếm nguồn hàng và đối tác cho hoạt động nhập khẩu:
a. Khái niệm thị trường.
“ Thị trường của doanh nghiệp thương mại là một hay nhiều nhóm khách hàng tiềm năng với những nhu cầu tương tự nhau và những người bán cụ thể nào đó mà doanh nghiệp với tiềm năng của mình có thể mua hàng hoá, dịch vụ để thoả thoả mãn nhu cầu của khách hàng ” ( Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại – PGS.TS Hoàng Minh Đường, PGS.TS Nguyễn Thừa Lộc).
b. Các phương pháp nghiên cứu thị trường.
Doanh nghiệp có thể sử dụng 2 phương pháp sau đây để nghiên cứu thị trường:
♣. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường:
Đây là phương pháp thu thập thông tin trực tiếp từ thị trường để tiến hành phân tích chúng, từ đó đưa ra kết luận bằng cách: điều tra phỏng vấn, qua các bảng hỏi, thư góp ý, quan sát, ghi chép… Theo phương pháp này các thông tin thu được là những thông tin sơ cấp, thường chưa qua xử lý; phải qua tổng hợp, phân tích. Nhược điểm của phương pháp này là chi phí cao, nhưng có ưu điểm là thông tin chính xác, cập nhật, không bị lạc hậu.
♣. Phương pháp nghiên cứu tại bàn:
Là phương pháp thu thập thông tin thông qua các kênh gián tiếp, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các số liệu niên giám thống kê, các báo cáo của các cơ quan có thẩm quyền… Nghiên cứu tại bàn thu được các thông tin thứ cấp. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm thời gian thu thập, xử lý dữ liệu, chi phí thấp. Nhưng có nhược điểm là thông tin tổng quát, đôi khi lỗi thời.
Các doanh nghiệp khi nghiên cứu thị trường sẽ tuỳ vào điều kiện và mục đích của mình để lựa chọn phương pháp nghiên cứu cho phù hợp hoặc có thể kết hợp cả 2 phương pháp để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
c. Nội dung của công tác nghiên cứu thị trường.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nói chung và các doanh nghiệp nhập khẩu nói riêng thì việc nghiên cứu thị trường nước ngoài để tìm ra nhà cung cấp những mặt hàng mà doanh nghiệp cần có ý nghĩa rất quan trọng.
Khi nghiên cứu thị trường đầu vào, doanh nghiệp nhập khẩu cần xác định lượng cung mặt hàng mình cần mua trên thị trường đó. Doanh nghiệp còn phải nghiên cứu giá cả của các lô hàng cần nhập khẩu vì giá cả là yếu tố quan trọng quyết định khả năng sinh lợi trong hạot động kinh doanh cả doanh nghiệp.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cần phân tích các yếu tố khác của thị trường như: Quan hệ chính trị giữa 2 nước, thể chế tài chính, văn hoá kinh doanh, văn hoá tiêu dùng… ở các thị trường mà mình muốn nhập khẩu.
d. Lựa chọn đối tác.
Lựa chọn đối tác là khâu rất quan trọng. doanh nghiệp có thể làm ăn với nhau lâu dài hay không tuỳ thuộc vào khâu này. Doanh nghiệp nhập khẩu có thể thông qua các tổ chức, cơ quan, dịch vụ, các website, hay tự tìm hiểu để xác định tư cách pháp nhân của đối tác.
1.2.2 - Xây dựng chiến lược, kế hoạch và lập phương án nhập khẩu.
Sau khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp đã có các thông tin về đối tác, về các mặt hàng cần nhập khẩu. Tuy vậy để kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp cần phải tiến hành xây dựng chiến lược, phương án nhập khẩu một cách cẩn trọng với các công việc cụ thể sau:
a. Xác định mục tiêu chiến lược:
Mục tiêu của chiến lược chính là những con số cụ thể mà doanh nghiệp mong muốn đạt được trong các giai đoạn cụ thể và trong cả quá trình kinh doanh. Doanh nghiệp cần đặt ra các mục tiêu về doanh thu, lợi nhuận, thị phần, vị thế của doanh nghiệp… khi xác định các mục tiêu cần đảm bảo tinh khoa học, tính đồng bộ, tính linh hoạt, tính khả thi, tính cụ thể, tính nhất quán. Đặc biệt mục tiêu phải phù hợp với điều kiện thực tế và nguồn lực của doanh nghiệp.
b. Xác định chính sách, điều kiện nhập khẩu.
Là việc xác định tư tưởng chỉ đạo trong quá trình đám phán và trong quá trình thực hiện hợp đồng về sau của doanh nghiệp. doanh nghiệp sẽ xác định chính sách nhập khẩu của mình với các đối tác có thể lâu dài hay chỉ tạm thời mang tính phi vụ.
c. Lập kế hoạch, phương án kinh doanh.
Phương án kinh doanh nhập khẩu là tài liệu thể hiện đề xuất phương án nhập khẩu mặt hàng nào đó với các biện pháp thực hiện cụ thể, các chỉ tiêu đánh giá trên cơ sở một số chỉ tiêu định tính và định lượng, thể hiện được mức độ khả thi của các phương án đó như: đặc điểm mặt hàng kinh doanh, đặc điểm của đối tác, cùng với các chỉ tiêu cụ thể về doanh thu, lợi nhuận, chi phí… phương án kinh doanh thường do bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp lập ra và trình lên lãnh đạo của doanh nghiệp, nếu được chấp nhận sẽ được đưa vào thực thi.
Kế hoạch kinh doanh là bản mô tả tổng quát những mục tiêu, nhiệm vụ và các biện pháp để đạt được các mục tiêu đó. Có kế hoạch kinh doanh thì hoạt động của doanh nghiệp mới đi đúng hướng, tránh được những nguy cơ về rủi ro, tổn thất có thể sảy ra. Kế hoạch kinh doanh cũng cần đảm bảo tính đồng bộ, tính khoa học, tính nhất quán, tính khả thi.
d. Lựa chọn phương thức nhập khẩu.
Doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu các phương thức nhập khẩu hiện nay, phân tích ưu nhược điểm của từng phương thức. Sau đó căn cứ vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp để lựa chọn phương án nhập khẩu phù hợp. Đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ, nguồn vốn hạn chế, gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin, tiếp cận thị trường thì nên chọn phương thức nhập khẩu uỷ thác sẽ có lợi hơn. Ngược lại những doanh nghiệp có những khả năng về tài chính cao, có đội ngũ nhân viên có nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi thì có thể lựa chọn phương thức nhập khẩu trực tiếp.
1.2.3 - Triển khai thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu của doanh nghiệp.
Thực hiện hợp đồng nhập khẩu thực chất là người kinh doanh vận dụng các nghiệp vụ ngoại thương để thực hiện hợp đồng nhập khẩu đã kí. Tuỳ thuộc vào phương thức thanh toán, điều kiện mua bán mà các bước của hoạt động này có thể khác nhau nhưng nhìn chung gồm các bước sau đây:
a. Xin giấy phép nhập khẩu.
Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lí nhập khẩu. Vì vậy, sau khi kí hợp đồng nhập khẩu doanh nghiệp phải xin giấy phép để được thực hiện hợp đồng đó.
Nếu mặt hàng nhập khẩu của doanh nghiệp là hàng hoá quản lý bằng hạn nghạch thì doanh nghiệp phải căn cứ vào nhu cầu và khả năng của mình rồi lập văn bản trình lên cơ quan có thẩm quyền để xin giấy phép nhập khẩu đối với một số hàng hoá nhất định trong thời gian nhất định.
Nếu là những mặt hàng không thuộc diện quản lý bằng hạn nghạch nhưng là mặt hàng nhập khẩu trong khuôn khổ nghị dịnh thư hay hiệp định ký kết của Chính phủ thì không cần phải xin giấy phép nhập khẩu.
Để xin giấy phép nhập khẩu doanh nghiệp cần phải xuất trình bộ hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau:
- Đơn xin giấy phép, phiếu hạn nghạch(nếu là hàng hoá thuộc diện quản lý bằng hạn nghạch).
- Hợp đồng uỷ thác nhập khẩu(nếu doanh nghiệp lựa chọn phương thức nhập khẩu uỷ thác).
- Các chứng từ liên quan.
Bộ hồ sơ xin giấy phép nhập khẩu, phải được gửi về Bộ Thương Mại ( nay là Bộ Công Thương ), đối với những hàng hoá thông thường. Còn đối với hàng hoá đặc biệt có sự quản lý về chuyên môn thì sẽ được gửi cho các cơ quan quản lý chuyên nghành tương ứng.
b. Làm thủ tục ban đầu thanh toán quốc tế.
Tuỳ theo thoả thuận giữa hai bên trong hợp đồng về phương thức thanh toán mà doanh nghiệp nhập khẩu phải tiến hành các công việc thanh toán theo quy định.
Nếu trong hợp đồng, hai bên thoả thuận thanh toán bằng phương thức chuyển tiền và người mua phải trả trước một phần tiền hàng theo quy định thì doanh nghiệp phải đến ngân hàng chuyển số tiền trả trước cho nhà xuất khẩu.
Nếu hai bên quy định việc thanh toán được thực hiện theo phương thức đổi chứng từ trả tiền ngay thi doanh nghiệp sẽ phải đến ngân hàng được chỉ định trong hợp đồng để ký biên bản ghi nhớ về việc thanh toán và chuyển đủ số tiền vào ngân hàng để lập tài khoản tín tác thanh toán cho người bán.
Còn nếu hợp đồng xuất nhập khẩu quy định việc thanh toán bằng L/C thì doanh nghiệp sẽ đến ngân hàng để làm các thủ tục mở L/C.
c. Thuê phương tiện vận tải.
Thông thường hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng đường biển vì chuyên chở hàng hoá bằng tàu có thể chở được với khối lượng lớn, cước phí lại rẻ. Tuỳ vào phương thức giao nhận mà nghĩa vụ thuê tàu sẽ do người xuất khẩu hay người nhập khẩu đảm nhận. Doanh nghiệp nhập khẩu sẽ thực hiện nghĩa vụ thuê tàu nếu hợp đồng xuất nhập khẩu được ký kết theo các điều kiện nhóm E, F (Incoterm 2000).
Khi thực