Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã khẳng định đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh thế giới khoa học công nghệ phát triển như vũ bão Việt nam không thể nằm ngoại lệ, muốn đạt mục tiêu thì phải có trình độ công nghệ nhất định và liên tục được nâng cao. Năng lực nội sinh hiện tại của Việt nam còn thấp, không thể chỉ tự phát huy nội lực mà cần phải học hỏi bạn bè các nước.
97 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đại hội Đảng lần thứ IX vừa qua đã khẳng định đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. Trong bối cảnh thế giới khoa học công nghệ phát triển như vũ bão Việt nam không thể nằm ngoại lệ, muốn đạt mục tiêu thì phải có trình độ công nghệ nhất định và liên tục được nâng cao. Năng lực nội sinh hiện tại của Việt nam còn thấp, không thể chỉ tự phát huy nội lực mà cần phải học hỏi bạn bè các nước. Có nhiều cách học hỏi nhưng lựa chọn cách thích hợp và có hiệu quả thì mới đem lại thành công. Đối với Việt nam hiện nay, những mặt hàng chứa hàm lượng khoa học công nghệ cao như máy vi tính và phụ kiện máy vi tính có tính năng tiện dụng cao nhưng trong nước chưa đủ khả năng sản xuất mặc dù nhu cầu trên thị trường Việt nam lớn thì nhập khẩu là tất yếu và rất cần thiết.
FPT (Công ty Đầu tư và Phát triển Công nghệ) là công ty công nghệ lớn của Nhà nước, có nhiệm vụ là một trong những doanh nghiệp đi đầu, tiên phong trong lĩnh vực tin học. Trong 13 năm hình thành và phát triển, công ty đã đóng góp phần không nhỏ trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ cho nước nhà. Nhập khẩu mặt hàng máy vi tính và phụ kiện máy vi tính đã được FPT thực hiện ngay từ khi thành lập, cho đến nay vẫn được duy trì, phát triển và có hiệu quả.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, tất cả các thành phần kinh tế được tham gia vào thị trường một cách bình đẳng, công ty FPT ngoài nhiệm vụ phục vụ cho các dự án của Nhà nước còn phải tự tìm kiếm đối tác và khách hàng. Bên cạnh những kết quả đạt được, công ty vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận đã được học tại trường kết hợp với cơ sở thực tiễn đã được quan sát tại Công ty FPT cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo, Thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai và các cô chú tại phòng Kế hoạch Kinh doanh của công ty, em đã chọn đề tài luận văn tốt nghiệp là “Hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT: Thực trạng và giải pháp”.
Mục đích của luận văn là:
-Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận chung về hoạt động nhập khẩu để phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động nhập khẩu nói chung và hoạt động nhập khẩu hai mặt hàng nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT trong những năm gần đây. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn hiện hoạt động nhập khẩu của công ty nói chung và hai mặt hàng chính trên nói riêng trong thời gian tới.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Vấn đề nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính tại công ty FPT.
Phạm vi nghiên cứu: công ty FPT hoạt động trong cả lĩnh vực nhập khẩu và xuất khẩu. Về hoạt động nhập khẩu, công ty nhập khẩu khá nhiều mặt hàng, tuy nhiên trong đề tài luận văn tốt nghiệp này em chỉ đề cập đến vấn đề “Nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT”.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn: Sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh thông qua các số liệu thu được để thấy sự tăng giảm qua các năm của từng chỉ tiêu trong từng thời kỳ.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp: Ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương chính:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu
Chương II: Thực trạng hoạt động hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty FPT trong thời gian qua
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu máy vi tính và phụ kiện máy vi tính của công ty fpt
Chương I: Lý luận chung về hoạt động nhập khẩu
I. Khái niệm và vai trò nhập khẩu
1. Khái niệm:
Hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ được coi là hoạt động thương mại, nó bao gồm hoạt động nội thương và hoạt động ngoại thương trong đó ngoại thương bao gồm xuất khẩu và nhập khẩu.
Hoạt động nhập khẩu là việc mua hàng hoá, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế hay các doanh nghiệp nước ngoài theo các nguyên tắc thị trường quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu để tìm kiếm lợi nhuận.
Hoạt động nhập khẩu là một bộ phận rất quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế, nó thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Từ đó thấy được lợi thế so sánh về vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ,... để có chính sách khai thác hợp lý và có lợi nhất.
Xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá trên thế giới diễn ra khá mạnh mẽ, đó là sự hình thành các khu vực mậu dịch, các liên minh kinh tế như AFTA, NAFTA,... đã cho thấy khối lượng giao dịch giữa các quốc gia ngày càng lớn và rõ ràng vai trò nhập khẩu là không thể thiếu, nó không chỉ quan trọng đối với một quốc gia mà còn đối với cả sự ổn định kinh tế chung của khu vực. ở một giới hạn nhất định nhập khẩu có thể quyết định tới sự sống còn của nền kinh tế nước đó đã thống nhất dưới một mái nhà chung của nền kinh tế thế giới.
2. Vai trò nhập khẩu:
Một điều khẳng định rằng, trên thế giới nơi nào có hoạt động thương mại, đặc
biệt là thương mại quốc tế phát triển thì nơi đó có nền kinh tế phát triển. Trước đây một số nước như Trung quốc, Liên xô (cũ), Việt nam đã coi độc lập kinh tế là vấn đề trên hết và có ý thức xây dựng một nền kinh tế tự cấp, tự túc. Nhưng thực tế đã thất bại, sự khan hiếm hàng hoá trầm trọng đã ảnh hưởng đến kinh tế cũng như xã hội. Bài học này cho thấy rằng hoạt động ngoại thương là vô cùng quan trọng, phải biết kết hợp cả nội lực và ngoại lực, ngoại lực là yếu tố quan trọng còn nội lực là yếu tố quyết định. Nhận thức được vấn đề này, các quốc gia đã tích cực tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế nơi thúc đẩy sự trao đổi buôn bán giữa các nước diễn ra một cách mạnh mẽ và có hiệu quả hơn. Và thành phần không thể thiếu, đó là nhập khẩu đã đóng vai trò quan trọng của nền kinh tế quốc gia cũng như đối với sự phát triển của thương mại quốc tế.
*Lý thuyết lợi thế so sánh của Ricardo đã chỉ ra rằng một nước sẽ có lợi hơn khi nhập khẩu một loại mặt hàng mà nếu chi phí sản xuất trong nước cao hơn và nên chuyên môn hoá vào lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn bằng cách xem xét đầu tư. Qua đó ta thấy vai trò nhập khẩu từ rất lâu đã được đánh giá là khá quan trọng bởi vì nó là hai mặt của hoạt động thương mại quốc tế, góp phần đưa nền kinh tế nước nhà đi lên trong một phạm vi nhất định.
*Nhập khẩu cùng với xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Nhờ hoạt động này mà một quốc gia có thể tiêu dùng vượt khả năng sản xuất của mình. Cũng nhờ có hoạt động nhập khẩu cơ cấu hàng hoá lưu thông trên thị trường trở nên phong phú hơn cả về quy cách, chất lượng, chủng loại, mẫu mã thoả mãn được nhu cầu trong nước ở mức độ cao đặc biệt đối với hàng hóa trong nước chưa sản xuất được. Bên cạnh đó nó cũng tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa hàng sản xuất trong nước và hàng ngoại nhập, thanh lọc các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả và khuyến khích các doanh nghiệp nội địa vươn lên. Nó xoá bỏ tình trạng độc quyền, phá vỡ triệt để nền kinh tế đóng, chế độ tự cung tự cấp. Mặt khác, hoạt động nhập khẩu còn góp phần cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động thông qua việc nhập khẩu các phương tiện, công cụ lao động mới, tiên tiến và an toàn.
*Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá-Hiện đại hóa (CNH-HĐH). Không phải tất cả các quốc gia đều có thể tự sản xuất để rồi tự trang bị cho mình, đặc biệt là các nước đang phát triển, nhu cầu về cải thiện cơ sở hạ tầng rất lớn và việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại tất yếu phải thông qua con đường nhập khẩu.
*Nhập khẩu bổ sung những mặt hàng còn thiếu hụt của nền kinh tế nội địa, giải quyết tình trạng không cân bằng giữa cung và cầu hàng hoá. Vì một lý do nào đó tác động đến cân bằng cung cầu và cung không đáp ứng đủ cầu trong nước. Mục tiêu hiệu quả kinh tế làm cho các quốc gia tham gia vào phân công lao động quốc tế, tập trung phát triển mặt hàng lợi thế. Hàng loạt các nhu cầu không thể đáp ứng bằng nguồn lực sản xuất nội địa mà phát sinh nhu cầu nhập khẩu mang tính chu kỳ và khá ổn định. Tham gia hoạt động nhập khẩu, sự mất cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu được khắc phục nghĩa là góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra thường xuyên và ổn định. Không chỉ nhập khẩu trực tiếp hàng hoá thiết yếu mà thị trường nội địa còn khan hiếm mà cả máy móc, nguyên phụ liệu, công nghệ giúp cho sản xuất trong nước phát triển, năng suất lao động cao hơn, hàng hoá sản xuất ra dồi dào và ngoài ra còn có tác dụng giữ giá ổn định trên thị trường, hạn chế sự leo thang của giá cả bằng cách tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh-chất lượng và giá cả được quan tâm.
*Nhập khẩu tác động trực tiếp đến sản xuất và kinh doanh vì nó cung cấp nguyên phụ liệu để sản xuất hàng hoá trong nước, tỷ lệ nguyên phụ liệu này tuỳ thuộc vào từng quốc gia với nhu cầu của họ, đem lại nhiều trình độ công nghệ khác nhau phù hợp với từng vùng, địa phương với quy mô và khả năng sản xuất được nâng cao, năng suất lao động tăng.
Ngoài ra nhập khẩu hàng tiêu dùng, sách báo khoa học, kỹ thuật, văn hoá góp phần nâng cao dân trí.
Nhập khẩu và xuất khẩu có mối quan hệ khăng khít với nhau. Hiện nay trên thế giới, các nước đều nhấn mạnh đến hoạt động xuất khẩu nhưng không vì thế mà nhập khẩu bị coi nhẹ. Có những mặt hàng nguyên phụ liệu phải nhập khẩu từ nước ngoài, cá biệt có thể là 100%, mà lợi thế so sánh chỉ là giá nhân công rẻ hoặc được hưởng ưu đãi nào đó. Đối với những nước kém về công nghệ thì việc nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị giúp cho hàng hoá sản xuất chất lượng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngược lại, nhập khẩu phải có lượng dự trữ ngoại tệ, khoản này không thể chỉ trông mong từ hoạt động đi vay từ các tổ chức quốc tế mà nó cần thiết phải được lấy ra từ hoạt động xuất khẩu và các nước đều cân đối để cán cân thương mại được cân bằng.
Tuy nhiên, hoạt động nhập khẩu cũng có những hạn chế chủ yếu sau:
*Tất cả các hoạt động trong xã hội cần có sự quản lý, hoạt động nhập khẩu cũng vậy, có nhiều phương pháp để thực hiện việc này thông qua thuế quan, phi thuế quan hoặc hành chính. Nếu quản lý không tốt thì tình trạng nhập khẩu sẽ không đúng với mục tiêu của Nhà nước gây nên tình trạng nhập khẩu tràn lan, giá thành giảm nhanh và dẫn đến lãng phí vừa tác động xấu đến sản xuất trong nước vừa gây thiệt hại cho các nhà nhập khẩu. Các cơ quan chức năng liên quan trực tiếp đến hoạt động này như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan nếu không thực hiện một cách đồng bộ quản lý từ trên xuống thì cách xử lý sẽ tạo ra sự không công bằng và thiệt hại có thể cho nền kinh tế trong nước hoặc nhà nhập khẩu hoặc cả hai. Ngoài ra, vì lợi ích trước mắt mà nhiều cán bộ của Hải quan đã cho qua các máy móc thiết bị có thông số kỹ thuật không phù hợp vào Việt nam, những thiết bị công nghệ cũ đã gây ô nhiễm môi trường vừa lãng phí tiền của vừa ảnh hưởng tới sức khoẻ của người lao động và người dân sống xung quanh.
*Nhập khẩu thường phải sử dụng ngoại tệ đặc biệt là ngoại tệ mạnh. Những nước đang phát triển nhu cầu nhập khẩu cao trong khi ngoại tệ lại thiếu nên việc vay nợ từ ngân hàng trong nước hoặc nước ngoài của các đơn vị là phổ biến khi lượng dự trữ ngoại tệ không đủ. Nếu kinh tế nước đó phát triển chậm hoặc không ổn định, cung ngoại tệ thấp hơn cầu thì tình trạng nợ sẽ không giải quyết được và nếu tỷ giá hối đoái tăng cao, nợ nước ngoại tệ có thể kéo dài.
*Trong trường hợp giá trị nhập khẩu nhiều hơn giá trị xuất khẩu sẽ gây nên
tình trạng mất cân bằng cán cân thương mại quốc tế ảnh hưởng đến quan hệ thương mại quốc tế giữa nước đó với các nước khác. Tỷ giá hối đoái tăng lên gây thiệt hại cho nước nhập khẩu, ngoài ra có thể chịu sức ép về kinh tế hay chính trị để có thể giải quyết được vấn đề nợ.
*Đào tạo con người- nhân tố trung tâm của mọi hoạt động-cần hết sức coi trọng. Hoạt động nhập khẩu là hoạt động khó đòi hỏi trình độ nghiệp vụ cao. Nếu không đào tạo cán bộ nhập khẩu và cán bộ làm công tác quản lý liên quan đến nhập khẩu như Hải quan, cán bộ thuế thì thiệt hại chắc chắn xảy ra do sự vô ý hay cố tình liên quan đến đạo đức làm giảm hiệu quả nhập khẩu.
Việt nam là nước đang phát triển, nhu cầu về công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu, phục vụ nhu cầu xã hội là rất lớn trong khi trình độ, khả năng tự có là không thể thì phương thức tối ưu nhất là nhập khẩu. Những mặt hàng như nhựa, đồ điện tử,... phụ liệu, linh kiện không thể tự sản xuất thì không có cách nào khác đó là nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng giá cả, chất lượng luôn dẫn đầu. Để thực hiện được mục tiêu của mình, phương châm mua sắm trong thời kì đầu rồi từng bước học tập, cải tiến máy móc, kỹ thuật, áp dụng phù hợp với hoàn cảnh Việt nam để sản xuất có hiệu quả hơn. Song, để phát huy tốt vai trò của nhập khẩu trong quá trình CNH-HĐH, vấn đề đặt ra là: cần thiết hoạt động nhập khẩu phải là phương tiện kết hợp sức mạnh trong nước và quốc tế.
II. các hình thức nhập khẩu chủ yếu
Nhập khẩu đơn thuần chỉ là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá qua biên giới nhưng trong thực tế có nhiều hình thức nhập khẩu, mỗi loại có những điều kiện nhất định, ưu điểm, nhược điểm riêng và các doanh nghiệp phải lựa chọn sao cho phù hợp nhất nhằm đạt được hiệu quả từ hoạt động của mình. Trong thực tế thường có những hình thức chủ yếu sau:
1. Nhập khẩu tư doanh:
Hình thức này còn được gọi là nhập khẩu trực tiếp. Doanh nghiệp đứng ra nhập khẩu một cách độc lập. Nó đòi hỏi nhà nhập khẩu phải nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng, hiểu biết sâu sắc tình hình luật pháp, chính sách của quốc gia mình và các thông lệ, luật pháp, tập quán quốc tế.
Do nhập khẩu độc lập nên yêu cầu doanh nghiệp phải nắm chắc nghiệp vụ và do đó nếu có rủi ro, tổn thất xảy ra thì phải tự gánh chịu. Ngược lại, thu được lợi nhuận sẽ được hưởng toàn bộ. Hoạt động nhập khẩu tư doanh có được sự tự chủ hơn so với các hình thức nhập khẩu khác, doanh nghiệp phải tự bỏ vốn ra để kinh doanh do đó muốn thu được lợi ích tối đa thì doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng từng bước từ khâu nghiên cứu thị trường cho đến kí kết và thực hiện các điều khoản trong hợp đồng cũng như tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu và thu tiền về,... Tính tự chủ hoàn toàn là đặc điểm khác biệt nhất và hiện nay nó được sử dụng nhiều nhất.
2. Nhập khẩu liên doanh:
Đây là hoạt động nhập khẩu hàng hoá trên cơ sở liên kết một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp (trong đó có ít nhất một doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp) nhằm phối hợp cùng nhau để tiến hành giao dịch và đưa ra các biện pháp liên quan đến nhập khẩu để hai bên đều thu được lợi ích (cùng chịu rủi ro và cùng hưởng lợi).
Hoạt động này không tự chủ như nhập khẩu tư doanh nhưng ngược lại chịu ít rủi ro hơn vì vốn, trách nhiệm, quyền hạn đều được phân bổ cho các bên. Trên thực tế bên nào có nghiệp vụ, kinh nghiệm, bạn hàng giao dịch sẽ có quyền nhập khẩu trực tiếp đồng thời đứng ra tiến hành góp vốn, bảo đảm các bước tiêu thụ, lắp ráp, gia công.
Trong thực tế Việt nam hiện nay, nhiều doanh nghiệp muốn tham gia nhập khẩu trực tiếp để giám sát nhưng không đủ hoàn toàn mọi điều kiện đồng thời cũng tìm được một đối tác có nhu cầu như mình, do đó, hình thức này vẫn được sử dụng.
3. Nhập khẩu uỷ thác:
Hình thức này được hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoại tệ riêng và có nhu cầu nhập khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không có quyền nhập khẩu trực tiếp, uỷ thác hàng hoá đó cho doanh nghiệp có chức năng trực tiếp giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác sẽ nhận được một khoản tiền gọi là lệ phí uỷ thác.
Bên nhận uỷ thác và bên uỷ thác sẽ kí kết hợp đồng mà theo đó bên nhận uỷ thác sẽ tiến hành các bước hoặc một số bước đã thoả thuận của quá trình nhập khẩu hàng hoá. Họ không phải bỏ vốn và phải chịu rủi ro bán hàng mà thay mặt cho bên uỷ thác giao dịch với bạn hàng nước ngoài từ kí kết cho đến thực hiện các điều khoản hợp đồng nhập khẩu. Trong thực tế, bên nhận uỷ thác là những công ty lớn, uy tín trên thương trường, mạnh về tiềm lực tài chính và nắm vững nghiệp vụ ngoại thương.
Đối với doanh nghiệp uỷ thác, do thiếu những điều kiện cần thiết nhưng vẫn có thể nhập khẩu được mặt hàng mình muốn mà không phải mất thời gian cho thủ tục nhập khẩu cũng như tiến hành các bước nhập khẩu. Tuy nhiên họ phải mất một khoản lệ phí lớn và mất đi lợi thế về chi phí trong hoạt động bán hàng về sau. Ngoài ra, do không trực tiếp thực hiện nhập khẩu nên hàng hoá có thể không đúng về quy cách, phẩm chất như trong hợp đồng.
Năm 1999, Chính phủ Việt nam đã ban hành Nghị định 37/CP cho phép các doanh nghiệp kinh doanh thuộc các ngành có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp. Vì vậy, hình thức này hiện nay giảm và nhường chỗ cho các hình thức khác phát triển.
4. Buôn bán đối lưu:
Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với số lượng hàng nhận về.
Hình thức này ra đời từ rất lâu, trong đó sớm nhất là “hàng đổi hàng”, tiếp đến là “trao đổi đền bù”.
Trong nghiệp vụ hàng đổi hàng, các bên trao đổi với nhau những hàng hoá tương đương và việc giao nhận hàng diễn ra gần như đồng thời, có thể thanh toán bằng tiền.
Trong nghiệp vụ bù trừ, hai bên trao đổi hàng hoá với nhau trên cơ sở ghi sổ
giá trị hàng giao. Đến cuối kì hạn hai bên mới so và đối chiếu trị giá hàng đã giao và trị giá đã nhận, nếu sau khi thực hiện nghiệp vụ bù trừ, tiền hàng còn dư thì số tiền đó được giữ lại để chi trả theo yêu cầu của bên chủ nợ hoặc có thể được ghi vào sổ cho nghiệp vụ bù trừ năm sau.
Do cùng một hợp đồng có thể thực hiện cả hoạt động nhập khẩu và xuất khẩu, cùng lúc thu lãi từ hai hoạt động này, hình thức này khá phát triển đặc biệt sau chiến tranh Thế giới lần thứ 2. Trong thập niên 90 của thế kỷ 20 buôn bán đối lưu chiếm gần 35% trong buôn bán quốc tế. Tuy nhiên để thu được lợi ích tối ưu nhất, các nhà kinh doanh cần phải nắm vững thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài.
5. Nhập khẩu tái xuất:
Là hoạt động nhập khẩu hàng hoá từ một nước rồi sau đó xuất sang nước thứ ba mà không qua khâu chế biến ở nước tái xuất.
Giao dịch này bao gồm nhập khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về một khoản ngoại tệ lớn hơn vốn bỏ ra ban đầu, nó luôn luôn gồm ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Hình thức này đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm rõ được thị trường nước ngoài về giá cả, mặt hàng cũng như biến động khác để có được sự chính xác, chặt chẽ trong các hợp đồng mua bán quốc tế.
Hoạt động nhập khẩu khá đa dạng về hình thức, mỗi loại có những ưu, nhược điểm riêng, doanh nghiệp nhập khẩu cần phải chọn những phương thức giao dịch phù hợp với mình về khả năng tài chính, về nghiệp vụ ngoại thương, về mối quan hệ với khách hàng sao cho lợi ích thu được là tối ưu.
III. Nội dung của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động nhập khẩu được tổ chức và thực hiện với nhiều nghiệp vụ, nhiều khâu từ điều tra thị trường, lựa chọn hàng hoá nhập khẩu và đối tác, tiến hành đàm phán giao dịch và kí kết hợp đồng, tổ chức thực hiện hợp đồng cho đến khi hàng hoá chuyển đến cảng và chuyển quyền sở hữu giữa bên bán cho bên mua, hoàn thành các thủ tục thanh toán. Các nghiệp vụ này đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, đầy đủ và nhanh chóng nắm bắt những lợi thế nhằm đảm bảo hiệu quả cao.
1. Nghiên cứu thị trường:
Đây là nghiệp vụ đầu tiên đặt ra cho bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào nhằm giúp họ nắm vững các yếu tố thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị trường để từ đó có thể đưa ra các ứng xử phù hợp. Nghiên cứu thị trường là cả một quá trình tìm kiếm khách quan và có hệ thống cùng với việc phân tích tổng hợp các thông tin cần thiết để giải quyết vấn đề. Quá trình này đòi hỏi rất công phu và tỉ mỉ bởi vì giá trị lớn, kinh doanh ngoại thương gặp nhiều rủi ro hơn với kinh doanh nội địa-bất cẩn sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường.
Qua nghiên cứu thị trường chúng ta phải trả lời được các câu hỏi sau:
Kinh doanh nhập khẩu hàng hoá gì?
Kinh doanh với ai?
Kinh doanh ở đâu, vào thời điểm nào?
Kinh doanh với số lượng bao