Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường đóng vai trò quan trọng chi phối mọi hoạt động kinh tế cũng như mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thị trường đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải xác định các biện pháp kinh doanh nhằm bán đước sản phẩm của mình, từ đó đưa ra các chiến lược thị trường phù hợp với từng giai đoạn phát triển của sản phẩm nhằm duy trì và mở rộng hơn nữa thị trường của mình. Các thị trường ngày càng toàn cầu hoá cao hơn có tác động mạnh hơn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Bối cảnh mới tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
41 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thương mại dịch vụ (INTIMEX). Thực trạng và biện pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Trong nền kinh tế hàng hoá, thị trường đóng vai trò quan trọng chi phối mọi hoạt động kinh tế cũng như mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Thị trường đặt ra yêu cầu doanh nghiệp phải xác định các biện pháp kinh doanh nhằm bán đước sản phẩm của mình, từ đó đưa ra các chiến lược thị trường phù hợp với từng giai đoạn phát triển của sản phẩm nhằm duy trì và mở rộng hơn nữa thị trường của mình. Các thị trường ngày càng toàn cầu hoá cao hơn có tác động mạnh hơn đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Bối cảnh mới tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường phải tuân theo các qui luật của thị trường điều tiết như: quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, giá cả... Do đó để có thể tồn tại và phát triển, để đứng vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi. Doanh nghiệp phải tự trang trải được mọi khoản chi phí, kinh doanh bằng chính thu nhập và phải có lợi nhuận. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy mà các doanh nghiệp đã tốn nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu kết qủa kinh doanh mà mình đạt được trong năm trước đó. Từ đó đưa ra các biện pháp hữu hiệu để nâng cao kết quả kinh doanh trong năm tiếp theo. Công ty xuất nhập khẩu thương mại - dịch vụ (INTIMEX) trong qúa trình kinh doanh đã đạt được nhiều thành công nhất định, tự khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường. Tuy nhiên những kết quả mà công ty đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Công ty. Giải quyết vấn đề này là yêu cầu cấp thếit và phù hợp với khả năng của Công ty.
Nhận thức được tầm quan trọng để tìm ra những ưu điểm, những hạn chế còn tồn tại của doanh nghiệp, em mạnh dạn chọn đề tài: “ Hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thương mại dịch vụ (INTIMEX). Thực trạng và biện pháp phát triển" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của bài viết gồm 3 chương với nội dung sau:
Mở đầu
Chương I: Những vấn đề tổng quan về kinh doanh liên quan đến hoạt động của Công ty Intimex
Chương II: Thực trạng và kết quả kinh doanh của Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX
Chương III: Giải pháp nâng cao kết quả kinh doanh tại Công ty xuất nhập khẩu INTIMEX.
Kết luận
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy em hy vọng sẽ nhận được những ý kiên đóng góp và sự giúp đỡ của các thầy cô giáo để hoàn thiện tốt hơn đề tài nghiên cứu này.
Sinh viên:
Phạm Thị Thu Huyền
Lớp: 513
Chương Một
Những vấn đề tổng quan về kinh doanh liên quan đến hoạt động của công ty intimex
I- khái niệm và ý nghĩa của việc nâng cao kết quả kinh doanh của công ty intimex .
1- Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và điều tiết của những quy luật kinh tế khách quan như : quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, giá cả ... đòi hỏi phải có những thông tin một cách kịp thời, chính xác và toàn diện về tình hình thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, tình hình quản lý và sử dụng lao động, vật tư và tiền vốn trong quy trình hoạt động kinh doanh, làm cơ sở đề ra các chủ trương, chính sách và biện pháp quản lý thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp .
Để có thể tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, đạt hiệu quả cao.
Kết quả kinh doanh xét về mặt kinh tế là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng. Là phần doanh thu còn lại sau khi đã bù đắp các khoản thuế và chi các khoản phí phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ quy định lợi nhuận = S doanh thu - S chi phí - các khoản thuế phải nộp chưa được tính vào chi phí.
Kết quả doanh nghiệp đạt được có liên quan rất chặt chẽ với các khoản doanh thu và chi phí bỏ ra trong kỳ .
Tổng doanh thu là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động bán hàng nó bao gồm toàn bộ số tiền mặt thu được và các khoản phải thu từ khách hàng mua chịu hàng hoá và được xác định ngày trả tại thời điểm bán hàng. Tổng doanh thu có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận .
Chi phí kinh doanh là những khoản chi phí doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành hoạt động tiêu thụ hàng hoá tạo thành doanh thu chi phí kinh doanh bao gồm:
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí phục vụ cho hoạt động quản lý doanh nghiệp bao gồm các khoản: chi phí tiền lương và các khoản cho nhân viên quản lý, chi phí công cụ phục vụ quản lý, chi phí dịch vụ mua ngoài cho hoạt động quản lý và các chi phí khác
+ Chi phí bán hàng : Là các khoản chi phí phục vụ cho việc tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp, chi phí trả lương cho nhân viên bán hàng, công cụ dụng cụ phục vụ cho hoạt động bán hàng, chi phí cho hoạt động xúc tiến bán hàng .
Ngoài ra doanh nghiệp còn phải bỏ ra các khoản chi phí thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước như các khoản thuế: thuế giá trị gia tăng (VAT), thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt ... .
Như vậy, kết quả kinh doanh là những chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó doanh nghiệp đánh giá được một cách tổng quát khắc phục những hạn chế còn tồn tại, phát huy những ưu điểm để nâng cao hiệu quả kinh doanh .
2. ý nghĩa của việc nâng cao kết quả kinh doanh
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp chỉ hoạt động theo kế hoạch cấp trên giao mà không hề quan tâm đến kết quả thu được là bao nhiêu. Nhưng trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp đa số phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, hạch toán độc lập. Do đó các doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh " thương trường là chiến trường ". Đó là quy luật của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nào mạnh, cạnh tranh thắng thì sẽ tồn tại và phát triển. Ngược lại doanh nghiệp nào không cạnh tranh được sẽ thất bại và bị phá sản .Vì vậy doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triẻn vững mạnh thì phải hoạt động có hiệu quả thực sự và không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh, kết quả kinh doanh.
Việc nâng cao kết quả kinh doanh là điều kiện để các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, thực hiện việc tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống vật chất ,tinh thần và điều kiện làm việc cho người lao động. Trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, nó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh thương mại , góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nhanh quá trình tái sản xuất xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế. Đặc biệt là trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay đang ở giai đoạn đầu của quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước thì việc nâng cao kết quả kinh doanh càng có ý nghĩa quan trọng vì nó góp phần nhanh hơn quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, tạo đà cho nền kinh tế cất cánh trong đầu thế kỉ XXI.
3 . Vai trò kinh doanh của Công ty Intimex
3.1 . Đối với Công ty Intimex
Kết quả kinh doanh có vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập lấy thu bù chi, tự chịu tách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình lỗ phải gánh chịu, lãi được hưởng. Do đó kết quả kinh doanh cao biểu hiện ở lợi nhuận cao là mục tiêu và động lực, là điều kịên để tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không điều đó được quyết định bởi doanh nghiệp có đạt kết quả trong hoạt động kinh doanh không kết quả hoạt động kinh doanh đạt được là cao hay thấp , hay nói cách khác đó là lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được là như thế nào chính vì lợi nhụân gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp nên mục tiêu của mọi quá trình kinh doanh đều nhằm đến kết quả kinh doanh cuối cùng đó là lợi nhuận và mong muốn tối đa hoá lợi nhuận để thu lợi ích cho bản thân của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp sẽ không tồn tại nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ không có kết quả, không mang lại lợi ích cho họ.
- Kết quả kinh doanh cao được coi là một đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh ghiệp. Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên nó có tác động đến mọi mặt quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn thực hiện được chỉ tiêu này thì trước tiên sản phẩm hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp phải được thì trường chấp nhận, tức là phải được người tiêu dùng chấp nhận và mua chúng, muốn vậy thì sản phẩm hàng hoá mà doanh nghiệp kinh doanh phải phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cao hay thấp phụ thuộc vào khối lượng hàng hoá dịch vụ tiêu thụ được. Do đó doanh nghiệp muốn nâng cao kết quả kinh doanh của mình thì phải tìm cách tăng doanh thu. Muốn vậy thì doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải nâng cao chất lượng cũng như đa dạng hoá sản phẩm hàng hoá dịch vụ của mình cho là phù hợp với sở thích , nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Rõ ràng kết quả kinh doanh càng cao thì nó sẽ là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng cải tiến, đổi mới, hợp lý hoá quy trình công nghệ, sử dụng tốt các nguồn lực của mình để tăng lợi nhuận và để tăng lợi nhuận thì doanh nghiệp lại phải thực hiện tốt các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh và cứ như vậy theo những chu trình mục tiêkết quả kinh doanh cuối cùng - lợi nhuận.
Trong bất kỳ nền kinh tế nào nếu như hoạt động kinh doanh không gắn liền với mục tiêu cuối cùng đó là lợi nhuận thì sẽ không có sự phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp sẽ không tồn tại được nếu như các hoạt động kinh doanh không đem lại lợi ích cho họ và người tiểu dùng sẽ mãi mãi không có được những sản phẩm hàng hoá phù hợp với nhu cầu của họ. Điều này đã được minh chứng qua giai đoạn phát triển của nền kinh tế nước ta. Trước đây nền kinh tế nước ta hoạt động theo cơ chế bao cấp tập trung, chỉ có duy nhất một thành phần kinh tế đó là kinh tế quốc doanh. Các doanh nghiệp không hoạt động vì lợi ích kinh tế mà mọi hoạt động kinh doanh đều là làm cho Nhà nước và Nhà nước trả tiền công. Do đó các doanh nghiệp trong thời kỳ này không hề quan tâm đến chất lượng của sản phẩm hàng hoá và không cần quan tâm đến việc liệu sản phẩm hàng hoá của mình sản xuất ra có phù hợp với nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng hay không ? Việc kinh doanh của mình có đem lại lợi nhuận hay không vì thế trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta không phát triển được, đời sống nhân dân thiếu thốn, háng hoá đơn điệu bởi vì nền kinh tế nước ta thời đó thiếu động lực phát triển đó là kết quả kinh doanh - lợi nhuận.
Ngày nay nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nưóc theo định hướng XHCN. Cơ chế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau và tuân theo quy luật điêù tiết của thị trường. Các doanh nghiệp tự chủ về mặt tài chính chịu trách nhiệm vềm hoạt động kinh doanh của mình. Chính vì vậy nên các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển được thì phải sản xuất kinh doanh những loại mặt hàng hoá dịch vụ phù hợp với người tiêu dùng với phương châm " Bán những cái gì thị trường cần chứ không bán những cái gì mình có ". Bởi vì có như vậy thì mới tiêu thụ được nhiều sản phẩm mà tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì ắt doanh nghiệp phải thu được kết quả cao, lợi nhuận cao.
Kết quả kinh doanh sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi là doanh nghiệp không những bảo toàn được vốn kinh doanh mà còn có một khoản lợi nhuận bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng lớn. Mà trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, vốn có ýnghĩa rất quan trọng đối với sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Có vốn doanh nghiệp có cơ hội thực hiện các dự án kinh doanh lớn, nâng cao uy tín và sự cạnh tranh trên thương trường của doanh nghiệp. Từ đó doanh ghiệp sẽ nâng cao hơn nữa kết quả kinh doanh của mình. Như vậy việc thực hiện chỉ tiêu kết quả kinh doanh là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính cuả doanh nghiệp được vững chắc, ổn định.
Kết quả kinh doanh cuối cùng mà thể hiện ở lợi nhuận là nguồn vốn tích luỹ quan trọng giúp doanh nghiệp đầu tư chiều sâu, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, là điều kiện để củng cố thêm sức mạnh và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Thật vậy, lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi đã thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và chia cho các chủ thể tham gia liên doanh... phần còn lại phân phối vào các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính. Các quỹ này được doanh nghiệp dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đổi mới trang thiết bị máy móc. Nhờ quỹ này mà doanh nghiệp có thể tự chủ hơn về mặt tài chính, , dễ dàng hơn trong việc đầu tư chiều sâu để nâng cao năng suất lao động. Đó cũng là tiền đề nâng cao kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Hơn thế nữa hiện nay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh là một nhu cầu tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có chu kỳ giống như chính những sản phẩm mà nó làm ra , nó cũng có lúc hình thành , phát triển và suy thoái. Do đó các doanh nghiệp, luôn có các biện pháp để kéo dài giai đoạn phát triển của doanh nghiệp .
Một trong những biện pháp đó là phải mở rộng quy mô kinh doanh, nâng cao năng suất lao động và tạo ra những sản phẩm mới, đa dạng hoá loại hình kinh doanh, phải có thị trường tiêu thụ được sản phẩm hợp lý với lợi nhuận.
Như vậy, doanh nghiệp muốn ngày càng phát triển thì phải mở rộng quy mô kinh doanh và nâng cao năng suất lao động từ đó dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng. Nếu doanh nghiệp thực hiện tốt công tác đầu tư quy mô sản xuất kinh doanh thì nó sẽ là một điều kiện quan trọng để chiến thắng đối thủ cạnh tranh .
3.2 Đối với người lao động trong Công ty Intimex
Kết quả kinh doanh cuối cùng đạt cao, tức lợi nhuận cao điều đó không chỉ là niềm mơ ước, khát khao của các nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp mà còn của cả những người lao động làm việc trong doanh nghiệp. Bởi lẽ khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt , có lợi nhuận cao thì lợi ích của người lao động sẽ được đảm bảo. Các doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì quỹ lương cao làm tăng thêm thu nhập của người lao động và cán bộ công nhân viên, đời sống được cải thiện, điều kiện làm việc được cải thiện tốt hơn và họ sẽ yên tâm tao động mà không sợ mất việc làm hay thu nhập thấp không đủ trang trải cho cuộc sống .
Nếu như mục đích của doanh nghiệp là kết quả kinh doanh cuối cùng tức là lợi nhuận thì mục đích của người lao động là thu nhập đồng lương cao hay thấp, tiền lương có 2 chức năng: đối với doanh nghiệp nó là một khoản chi phí, còn đối với người lao động nó là một khoản thu nhập, là lợi ích kinh tế của họ. Khi người lao động được trả tiền lương thoả đáng họ sẽ yên tâm lao động, phát huy được khả năng sáng tạo của mình để cống hiến sức lao động cho doanh nghiệp, tăng năng suất lao động . Đây cũng là biện pháp để doanh nghiệp nâng cao kết quả kinh doanh của mình. Mặt khác khi lợi ích của người lao động được đảm bảo bằng mức lương thoả đáng thì sẽ tạo ra sự gán kết hai chiều giữa người lao động và doanh nghiệp, từ đó người lao động có ý thức trách nhiệm hơn, tự giác hơn toàn tâm toàn ý với công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế mà người lao động bao giờ cũng muốn làm việc cho những doanh nghiệp làm ăn phát đạt và mong muốn lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng bởi vì lợi nhuận gắn liền với lợi ích và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người lao động.
3.3 Việc đóng góp đối với Nhà nước
Một doanh nghiệp làm ăn có lãi sẽ nộp cho ngân sách Nhà nước nhiều và ngựơc lại. Do đó lợi nhuận là một nguồn thu ngân sách Nhà nước, nâng cao phúc lợi xã hội, tạo nền phát triển cho kinh tế quốc dân, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện công bằng xã hội. Nếu xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở rộng nền kinh tế. Việc tham gia đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách. Nhà nước được thể hiện qua số thuế lợi tức ( trứoc đây ) và nay là thuế thu nhập doanh nghiệp. Loại thuế này đựoc dựa trên cơ sở lợi nhuận doanh nghiệp thu đựoc trong kỳ. Trên cơ sở nguồn thu ngân sách này nhà nước có điều kiện huy động thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, xây dựng các công trình phúc lợi, thành lập, cải tạo, mở rộng cơ sở kinh doanh mới, từ đó giải quyết được số lượng người thất nghiệp trong xã hội, nâng cao dân trí, xây dựng xã hội ngày càng văn minh tiến bộ.
Kết quả kinh doanh cao sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân ở bất kỳ quốc gia nào, chính phủ nào cũng mong muốn các doanh nghiệp làm ăn có lãi. Bởi vì lợi ích kinh tế của các quốc gia gắn liền với các lợi ích doanh nghiệp. Sự phồn thịnh cuả các quốc gia chính là sự phồn thịnh và phát triển của hệ thống các doanh nghiệp ở quốc gia đó. Các doanh nghiệp kinh doanh có kết quả cao thì tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc dân phát triển.
Lợi nhuận là thước đo tính hiệu quả của các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đối với sự quản lý hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả là lợi nhuận ngày càng cao, nghĩa là các chính sách vĩ mô của Nhà nước là đúng đắn và thành công trong việc kích thích các doanh nghiệp phát triển. Và ngược lại với các chính sách vĩ mô của Nhà nước đưa ra gây nên tác động tiêu cực tới hoạt động của các doanh nghiệp thì Nhà nước có những biện pháp kịp thời điều chỉnh lại cho phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp.
Tóm lại, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực, là lý do tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhờ có lợi nhuận mà doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính vững chắc, giải quyết vấn đề thất nghiệp. Lợi nhuận còn là nguồn thu ngân sách của Nhà nước, từ đó tạo nguồn tích luỹ của Nhà nước đẻ tái sản xuất mở rộng nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở hạ tầng kích thích kinh doanh sản xuất sức lao động, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của họ và gia đình, tạo nên sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp. Với vai trò quan trọng như vậy của kết quả kinh doanh cho nên các doanh nghiệp luôn tìm kiếm mọi biện pháp để nâng cao kết quả kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận.
II. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả Kinh doanh -hiệu quả kinh doanh
1. Các chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh doanh
1.1 . Chỉ tiêu doanh thu
1.1.1. Doanh thu
Doanh thu của một doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh giá trị hàng hoá, thành phẩm hoặc dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ.
Nó là khoản tiền mà doanh nghiệp đã thu về hoặc có quyền đòi về cho việc bán các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ được xác định hoàn thành.
Tổng doanh thu bao gồm có các loại : doanh thu bán hàng, doanh thu hàng tiêu thụ trong nội bộ doanh nghiệp, hàng đổi hàng, hàng làm quà biếu, hàng làm quà tặng.
Tổng doanh thu ( thu theo hoá đơn ) là các khoản doanh thu khi chưa trừ đi các khoản giảm trừ.
Doanh thu thuấn = tổng doanh thu - các khoản giảm trừ - thuế ( xuất khẩu, tiêu thụ đặc biệu nếu có, giá trị gia tăng VAT đối với cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng VAT theo phương pháp trực tiếp).
Các khoản giảm trừ gồm hàng bán bị trả lại, chiết khấu bán hàng. Việc tăng doanh thu thực chất là việc tăng lượng tiền về cho doanh nghiệp đồng thời nó cũng tăng lượng hàng hoá bán ra trên thị trường. Vì vậy tổng doanh thu có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả doanh nghiệp cũng như đối với xã hội.
Doanh thu đối với doanh nghiệp.
+ Góp phần thực hịên tốt chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp và là điều kiện để thực hiện tốt các mục đích kinh doanh của mình, đó là lợi nhuận cuối cùng cao.
+ Góp phần thu hồi vốn nhanh, bù đắp các khoản chi phí và tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp để từ đó làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, cải thiện đời sống vật chất cho cán bộ công nhân viên, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, giải quyết nạn