Đề tài Hoạt động tiêu thụ sản phẩm và một số phương hướng biện pháp nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng

Môi trường kinh doanh luôn chứa đựng trong đó đầy cạnh tranh và áp lực, báo hiệu có rất nhiều thách thức, cũng như các cơ hội cho các chủ thể tham gia. Đó là điều tất yếu xẩy ra khi nền kinh tế thị trường ra đời . Thị trường luôn biến động, nhu cầu của con người luôn thay đổi ,cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Trong khi đó nguồn lực của doanh nghiệp thì có hạn. Vì vậy nếu doanh nghiệp không khẳng định được mình chắc chắn sẽ bị quy luật cạnh tranh đào thải. Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp trở thành một chủ thể kinh doanh của quá trình tái sản xuất xã hội. Doanh nghiệp phải tự vận động theo phương châm: “Sản xuất và đưa ra thị trường những cái gì mà thị trường cần chứ không phải những thứ mình có”. Do vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn phải tổ chứa tiêu thụ sản phẩm. Việc quan trọng nhất là phải đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp nếu không doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ, sản phẩm bị tồn đọng không thu hồi được vốn, quá trình tái sản xuất không thực hiện được và cuối cùng là phá sản. Chính vì lẽ đó mà công tác tiêu thụ sản phẩm được đặt lên hàng đầu trong chiến lược kinh doanh của công ty. Trong quá trình thực tập tại công ty 247 - Bộ quốc phòng, em đã phần nào thấy được thực trạng hoạt động của Công ty trên nhiều lĩnh vực. Trong đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm đã và đang được Công ty rất quan tâm. Được sự đồng ý của Khoa quản trị Kinh Doanh và thầy giáo hướng dẫn Thạc sỹ Trần Văn Cốc, em đã lựa chọn đề tài “Hoạt động tiêu thụ sản phẩm và một số phương hướng biện pháp nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng” Mục đích là muốn góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình kinh doanh của Công ty nói chung và khâu tiêu thụ sản phẩm nói riêng để làm sao hoạt kinh doanh của Công ty phát triển tốt hơn. Mặc dù đã cố gắng, nhưng chắc chắn bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để bài viết mang tính thực tiễn cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Công ty 247, đặc biệt là thầy giáo, thạc sỹ Trần Văn Cốc đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 phần như sau: Phần I: Lý luận chung về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II: Phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng. Phần III: Một số phương hướng biện pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng

doc84 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1459 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tiêu thụ sản phẩm và một số phương hướng biện pháp nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Môi trường kinh doanh luôn chứa đựng trong đó đầy cạnh tranh và áp lực, báo hiệu có rất nhiều thách thức, cũng như các cơ hội cho các chủ thể tham gia. Đó là điều tất yếu xẩy ra khi nền kinh tế thị trường ra đời . Thị trường luôn biến động, nhu cầu của con người luôn thay đổi ,cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Trong khi đó nguồn lực của doanh nghiệp thì có hạn. Vì vậy nếu doanh nghiệp không khẳng định được mình chắc chắn sẽ bị quy luật cạnh tranh đào thải. Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp trở thành một chủ thể kinh doanh của quá trình tái sản xuất xã hội. Doanh nghiệp phải tự vận động theo phương châm: “Sản xuất và đưa ra thị trường những cái gì mà thị trường cần chứ không phải những thứ mình có”. Do vậy cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn phải tổ chứa tiêu thụ sản phẩm. Việc quan trọng nhất là phải đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp nếu không doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ, sản phẩm bị tồn đọng không thu hồi được vốn, quá trình tái sản xuất không thực hiện được và cuối cùng là phá sản. Chính vì lẽ đó mà công tác tiêu thụ sản phẩm được đặt lên hàng đầu trong chiến lược kinh doanh của công ty. Trong quá trình thực tập tại công ty 247 - Bộ quốc phòng, em đã phần nào thấy được thực trạng hoạt động của Công ty trên nhiều lĩnh vực. Trong đó hoạt động tiêu thụ sản phẩm đã và đang được Công ty rất quan tâm. Được sự đồng ý của Khoa quản trị Kinh Doanh và thầy giáo hướng dẫn Thạc sỹ Trần Văn Cốc, em đã lựa chọn đề tài “Hoạt động tiêu thụ sản phẩm và một số phương hướng biện pháp nâng cao hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng” Mục đích là muốn góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình kinh doanh của Công ty nói chung và khâu tiêu thụ sản phẩm nói riêng để làm sao hoạt kinh doanh của Công ty phát triển tốt hơn. Mặc dù đã cố gắng, nhưng chắc chắn bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để bài viết mang tính thực tiễn cao hơn. Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ Công ty 247, đặc biệt là thầy giáo, thạc sỹ Trần Văn Cốc đã giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Nội dung của chuyên đề ngoài lời mở đầu và kết luận gồm có 3 phần như sau: Phần I: Lý luận chung về hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần II: Phân tích thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng. Phần III: Một số phương hướng biện pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty 247 - Bộ quốc phòng PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. I. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM. 1. Khái niệm. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là giai đoạn chuyển giao việc sở hữu hàng hoá từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng hay đó là một quá trình thu hồi lại giá trị đã bỏ ra trong sản xuất bằng cách bán các sản phẩm. Đó là yếu tố quyết định sự tồn tại và triển của doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy thích ứng với mỗi cơ chế quản lý, công tác tiêu thụ sản phẩm được thể hiện bằng các hình thức khác nhau . 1.1. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung. Thời kỳ này, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh không xuất phát từ thực tế khách quan của nền kinh tế, công tác tiêu thụ sản phẩm không được quan tâm đúng mức . Về phía nhà nước: đứng trên giác độ toàn xã hội, Nhà nước lập kế hoạch cung ứng vật tư cho các đơn vị sản xuất – kinh doanh và giao chỉ tiêu nộp sản phẩm cho Nhà nước. Về phía các đơn vị: sản phẩm sản xuất ra, Nhà nước quy định giá bán, lượng bán và như thế quá trình tiêu thụ diễn ra rồi kết thúc với người mua, người bán được ghép mối từ trước. Số lượng, giá cả, chất lượng là yếu tố quan trọng của quá trình mua bán thì cả người mua và người bán không tự mình quyết định được. Giá trong thời kỳ này đều do Nhà nước áp đặt, giá cả không phản ánh đúng giá trị của hàng hoá. Quan hệ giữa các ngành là quan hệ dọc, được kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm. Trong tiêu dùng: người tiêu dùng không được quyền lựa chọn hàng hoá có nhu cầu mà phải tuân thủ theo chế độ phân phối bình quân bằng hiện vật, việc lưu thông hàng hoá chỉ đơn thuần là mặt hình thức. Tóm lại : trong thời kỳ này, doanh nghiệp không được tự mình quyết định, tất cả mọi hoạt động đều do Nhà nước chi phối, việc tiêu thụ sản phẩm chỉ là việc tổ chức bán sản phẩm hàng hoá sản xuất ra theo kế hoạch, địa chỉ và giá cả được ấn định từ trước do Nhà nước ấn định sẵn. 1.2. Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường có định hướng của Nhà nước: Cùng với sự xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp, trong giai đoạn này các doanh nghiệp phải tự mình giải quyết 3 vấn đề trung tâm: sản xuất cái gì ? Cho ai? bằng cách nào?, đồng thời cũng tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Để có vốn cho hoạt động sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá do đó việc tiêu thụ sản phẩm đóng vai trò sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh đều mong muốn đạt đến mục tiêu: Lợi nhuận – an toàn – vị thế. Các mục tiêu này chỉ có thể đạt được trên cơ sở tiêu thụ được sản phẩm mang lại doanh thu lớn, lợi nhuận cao. Tiêu thụ sản phẩm phải tạo dựng được uy tín, lòng tin đối với khách hàng, tạo được chỗ đứng vững trắc cho doanh nghiệp trên thương trường . Trong thời kỳ này tiêu thụ sản phẩm đã thể hiện được đúng vai trò của nó . Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối trung gian giữa một bên là sản xuất phân phối và một bên là tiêu dùng. Đối tượng của tiêu thụ là người tiêu dùng cuối cùng hay các đơn sản xuất sẽ quyết định bản chất hoạt động mua bán, đó là hoạt động thương mại đầu ra hay hoạt động thương mại đầu vào của doanh nghiệp. Tóm lại, tiêu thụ cần được hiểu theo cả hai nghĩa là nghĩa hẹp và nghĩa rộng. ¨ Nghĩa hẹp đồng nghĩa với hoạt động bán hàng. Theo quan niệm này thì tiêu thụ không phải là một quá trình mà nó chỉ là một khâu, một hoạt động mang tính chất riêng lẻ. Quan niệm này không còn phù hợp với sự phát triển của kinh tế và xã hội ngày nay. Ngày nay, tiêu thụ không chỉ giới hạn trong hoạt động bán hàng mà còn bao gồm cả các hoạt động bổ trợ khác . ¨ Theo nghĩa rộng: Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế khách quan bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu khách hàng và tổ chức sản xuất, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc tiến bán hàng nhằm mục đích đạt hiệu quả cao nhất . 2. Vị trí của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm có một vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là Doanh nghiệp sản xuất. Bởi vì nền sản xuất xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá cho sản xuất, tiêu dùng ngày càng nhanh, sản phẩm được chuyển từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng một cách nhanh chóng đồng bộ, kịp thời. Đó chính là nhờ vào hoạt động tiêu thụ sản phẩm Mỗi Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường muốn tồn tại và phát triển thì phải xác định được vị trí của công tác tiêu thụ sản phẩm và chỉ có tiêu thụ sản phẩm thì Doanh nghiệp mới có cơ hội làm ăn mới, thông qua việc thu lợi nhuận từ hoạt động này. Điều này càng chứng tỏ từ sau Đại hội VI của Đảng và Nhà nước đã chủ trương đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế nhiều thành phần. Quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh thuộc về các Doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong nền kinh tế thị trường phải xây dựng trên cơ sở mua bán. Hoạt động này diễn ra theo nguyên tắc bình đẳng, tự do, các Doanh nghiệp tự hạch toán lãi lỗi, chủ động trong kinh doanh. Do vậy hoạt động tiêu thụ sản phẩm giữ một vị trí hết sức quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào. 3. Vai Trò của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc tiêu thụ sản phẩm luôn là vấn đề quan tâm của các Doanh nghiệp công nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm làm ra thì Doanh nghiệp mới thu hồi được vốn bỏ ra, mới có thể thông qua đó thu được lợi nhuận, từ đó mới tích luỹ để tiến hành tái sản xuất mở rộng. Khi nền kinh tế hàng hoá càng phát triển, cơ chế thị trường được hình thành và hoàn thiện thì vấn đề tiêu chỉ tiêu tổng hợp nhất, thông qua đó mới đánh giá được cả một quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Phân tích quá trình tiêu thụ sản phẩm ta thấy có những vai trò sau: Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất trong các Doanh nghiệp. việc tiêu thụ sản phẩm nhanh gọn trên thị trường sẽ giúp cho các Doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh, nó mang lại doanh thu cho doanh nghiệp để bù đắp các chi phí phát sinh khi tạo nên thực thể sản phẩm và phần lãi thu được. Từ đó mới có vốn để đầu tư cho quá trình sản xuất tiếp theo . Kết quả đạt được ở khâu tiêu thụ sản phẩm phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Sản phẩm công nghiệp bao gồm cả hai mặt chủ yếu là giá trị và chất lượng. Giá trị là cơ sở để hình thành giá cả của hàng hoá, còn chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi sản phẩm đưa ra thị trường và được thị trường chấp nhận tức là thị trường đã chấp nhận giá cả và chất lượng của sản phẩm, điều đó làm cho sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn và tất nhiên hiệu quả kinh doanh thu được sẽ cao hơn. Tiêu thụ sản phẩm góp phần quan trọng trong việc duy trì phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ .Rõ ràng khi hoạt động tốt công tác tiêu thụ sẽ làm cho mối quan hệ giữa Doanh nghiệp với khách hàng, khách hàng truyền thống ngày càng củng cố mật thiết hơn. Mặt khác uy tín về sản phẩm của Doanh nghiệp càng được tăng lên, những khách hàng mới sẽ tìm đến với Doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để Doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Doanh nghiệp nắm bắt thoả mãn nhu cầu, từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh có hiệu quả. Quá trình hoạt động tích cực ở khâu tiêu thụ góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh được xét trên hai góc độ khác nhau: Đối với Doanh nghiệp công nghiệp thì mang lại lợi nhuận cao, mở rộng sản xuất, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Đối với ngành công nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói chung thì góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, làm cho cung cầu hàng hoá được ổn định, đặc biệt góp phần quan trọng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. II. NỘI DUNG CỦA HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM. 1. Tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định nhu cầu thị trường về sản phẩm. Nghiên cứu thị trường là khâu đầu tiên của quá trình kinh doanh, đó là việc tìm kiếm và khai thác cơ hội kinh doanh xuất hiện trên thị trường . Nghiên cứu thị trường nhằm trả lời câu hỏi: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và cho ai? Tức là thị trường đang cần những loại sản phẩm gì? Đặc điểm kỹ thuật của nó ra sao? Dung lượng thị trường về sản phẩm đó như thế nào? Ai là người tiêu thụ những sản phẩm đó? Mục đích của nghiên cứu thị trường là nghiên cứu, xác định khả năng bán một loại mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng nào đó trên địa bàn xác định để trên cơ sở đó Doanh nghiệp tổ chức các hoạt động của mình nhằm đáp ứng những gì mà thị trường đòi hỏi. Đồng thời đưa ra các quyết định hợp lý. Nội dung của nghiên cứu thị trường được thể hiện qua: Nghiên cứu khái quát thị trường: Là nghiên cứu quy mô, cơ cấu và xu hướng vận động của thị trường. Đó là nghiên cứu tổng cung, tổng cầu, giá cả thị trường và chính sách của chính phủ về loại hàng hoá đó. Nghiên cứu chi tiết thị trường: Thực chất là nghiên cứu đối tượng mua bán loại hàng hoá mà Doanh nghiệp kinh doanh, cơ cấu thị trường hàng hoá và chính sách mua bán của các Doanh nghiệp có nguồn hàng lớn. Đồng thời trả lời được các câu hỏi: Ai mua hàng? Mua ở đâu? Mua bao nhiêu? Cơ cấu của loại hàng? Mua hàng dùng làm gì? Đối thủ cạnh tranh ?. * Nghiên cứu về cung hàng hoá : Tức là nghiên cứu về dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng đến nó. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá bán ra trên thị trường nhất định và nó được tính theo cả hai chỉ tiêu: Hiện vật và giá trị. Nghiên cứu thị trường về hàng hoá để xác định khả năng cung cấp cho thị trường, tỷ lệ của Doanh nghiệp trên thị trường, tính chất thời vụ của sản xuất cũng như tiêu dùng sản phẩm hàng hoá . * Nghiên cứu về cầu hàng hoá: nhằm xác định nhu cầu thực của thị trường về hàng hoá, xu hướng biến động của cầu trong từng giai đoạn, thời kỳ từng khu vực thị trường từ đó có thể thấy được đâu là thị trường trọng điểm của Doanh nghiệp và đặc điểm của nhu cầu đó ra sao. Để nghiên cứu thị trường người ta thường dùng các phương pháp sau: Phương pháp nghiên cứu tại bàn : Là phương pháp nghiên cứu thu thập thông tin qua các tài liệu như sách báo, tạp trí quảng cáo và các loại tài liệu liên quan đến sản phẩm, mặt hàng mà Doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh. Cần nghiên cứu khả năng cung ứng, khả năng tồn kho, giá cả hàng hoá và khả năng biến động của thị trường . Từ đó giúp các Doanh nghiệp xác định được hướng phát triển sản xuất và lựa chọn những thị trường có triển vọng nhất trong kinh doanh. Đây là phương pháp nghiên cứu đơn giản, chi phí nghiên cứu thấp giúp các Doanh nghiệp có khả năng khái quát được thị trường. Nhưng đòi hỏi người nghiên cứu phải có chuyên môn biết cách thu thập thông tin một cách đầy đủ và tin cậy. Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường: Đây là phương pháp trực tiếp cử cán bộ đến tận nơi nghiên cứu. Cán bộ nghiên cứu thông qua việc trực tiếp quan sát, thu thập các nguồn thông tin và số liệu ở các đơn vị tiêu dùng lớn bằng cách: Điều tra trọng điểm, điều tra chọn mẫu, điều tra điển hình, hay gửi phiếu điều tra, thông qua hội nghị khách hàng …Hoặc tiếp xúc trực tiếp với khách hàng qua các cửa hàng của Doanh nghiệp. Tuy nhiên đây là phương pháp tiến hành tỉ mỉ và công phu chi phí nghiên cứu lớn . Nhu cầu thị trường về sản phẩm của Doanh nghiệp Dung lượng thị trường = x Lượng hàng hoá tiêu thụ của Doanh nghiệp Thị phần của Doanh nghiệp Tổng lượng hàng hoá tiêu thụ của thị trường = Sau khi có được các thông tin cần thiết Doanh nghiệp cần xác định. Thị phần tương đối về sản phẩm của Doanh nghiệp 2. Lựa chọn sản phẩm thích ứng thực hiện đơn đặt hàng và tiến hành tổ chức sản xuất. Dựa vào kết quả nghiên cứu thị trường và việc đánh giá năng lực sản xuất của Doanh nghiệp, Doanh nghiệp sẽ quyết định lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp. Đây là nội dung quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động tiêu thụ. Lựa chọn sản phẩm thích ứng, có nghĩa là phải tổ chức sản xuất những sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. Sản phẩm thích ứng bao hàm về lượng, chất lượng và giá cả. Về mặt lượng, sản phẩm phải thích ứng với quy mô thị trường, với dung lượng thị trường. Về mặt chất lượng sản phẩm phải phù hợp với yêu cầu, ương xứng với trình độ tiêu dùng. Thích ứng về mặt giá cả là giá cả được người mua chấp nhận và tối đa hoá được lợi ích người bán. 3. Tiếp nhận, bảo quản thành phẩm, tiếp tục hoàn thiện sản phẩm. Quá trình này bao gồm một số nghiệp vụ như : Tiếp nhận, kiểm tra, Phân loại, bao gói, ghép đồng bộ hàng hoá. 3.1. Tiếp nhận bảo quản thành phẩm. Hàng hoá sau khi ra khỏi dây chuyền sản xuất gọi là thành phẩm và được đưa tới kho. Nó sẽ được bảo quản tại đây cho tới khi đưa vào lưu thông trên thị trường. Qua việc tiếp nhận hàng hoá vào kho , chúng ta cũng sẽ kiểm tra, kiểm soát được chất lượng sản phẩm, nhanh chóng tìm ra nguyên nhân gây lỗi để sữa chữa. Để tiếp nhận thành phẩm vào kho được tốt thì phải chuẩn bị: Kho chứa hàng, các phương tiện bốc dỡ vận chuyển, các thiết bị dụng cụ để kiểm tra kiểm nghiệm và nguồn nhân lực tiếp nhận. Chuẩn bị trước các hoá đơn, chứng từ cần thiết, liên quan theo thủ tục. Khi tiến hành tiếp nhận phải tuân theo đúng các nguyên tắc : Nhận hàng đúng số lượng, chất lượng ghi trong hoá đơn, chứng từ. Phát hiện kịp thời những thiếu hụt, mất mát, hư hỏng để xác định nguyên nhân và truy cứu trách nhiệm. Ghi chép chính xác vào sổ kho những hàng hoá đã nhận. Với trường hợp mà qua kiểm tra, kiểm nghiệm, quan sát thấy hàng hoá không đúng theo tiêu chuẩn và có sai lệch cần lập ngay biên bản ghi lại chi tiết. 3.2. Bảo quản thành phẩm. Hàng hoá đã được nhận vào kho là mọi trách nhiệm về số lượng, chất lượng được giao cho bộ phận kho đảm nhận. Tuy nhiên nó không thể tách rời quá trình tiêu thụ sản phẩm. Nhiệm vụ của kho ngoài việc bảo quản tốt còn phải sắp xếp khoa học và kinh tế để giảm bớt chi phí lưu thông. Quy trình bảo quản hợp lý là sự thống nhất giữa các tổ chức cán bộ hợp lý và các kỹ thuật bảo quản, bao gồm: Lựa chọn kho và phân bố hàng hoá trong kho Định vị định lượng hàng hoá trong kho Kê lót và chất xếp hàng hoá Điều hoà nhiệt độ và độ ẩm trong kho Chống côn trùng gặm nhấm. 3.3. Tiếp tục hoàn thiện sản phẩm. Để đảm bảo và phát huy giá trị sử dụng của hàng hoá một cách tối đa, có hiệu quả kinh tế cao, Doanh nghiệp cần phải: Phân loại, chọn lọc và đóng gói: Xuất phát từ yêu cầu cụ thể của khách hàng trong quá trình thực hiện bán hàng cần thiết phải phân loại chọn lọc các hàng hoá theo đúng yêu cầu. Tổ chức đóng gói hàng hoá thành những lô hàng thích hợp cho vận chuyển, bảo quản, giao nhận. Tổ chức lắp ráp, làm đồng bộ sản phẩm: Lắp ráp và làm đồng bộ là hình thức làm tăng giá trị sử dụng của sản phẩm trước khi xuất bán. Yêu cầu của khách hàng là thuận tiện trong sử dụng, giảm các khâu trung gian không cần thiết trong công việc tiêu dùng. Khi lắp ráp có thể khắc phục luôn những sơ suất nhỏ để sản phẩm trở lên đồng bộ có giá trị sử dụng cao. Sơ chế hàng hoá: Trong một số trường hợp, khách hàng yêu cầu sơ chế hàng hoá trước khi bán cho họ. Đặc biệt các hàng hoá là tư liệu sản xuất. Sơ chế là một hình thức tạo điều kiện cho quá trình sử dụng sau được thuận lợi hơn. 4.Chính sách giá cả hàng hoá. Đối với các sản phẩm sản xuất ra Doanh nghiệp phải sử dụng chính sách giá để quy định mức giá bán cho nó. Giá cả là một trong bốn tham số chính của Marketing – mix có tác động trực tiếp đến tiêu thụ và qua đó tác động đến lợi nhuận của Doanh nghiệp. Vì vậy chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt hiệu quả sẽ đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công chung của Doanh nghiệp. Căn cú vào mục tiêu của mình, căn cứ vào sự ảnh hưởng của các nhân tố đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và chính sách giá nói riêng. Chính sách giá của Doanh nghiệp có thể hướng tới một trong ba cách sau: * Chính sách giá hướng tới chi phí: Đặt ra giá bán đủ để bù đắp chi phí và có lãi.Với chính sách này đòi hỏi giá thành đơn ấnhnr phẩm của Donah nghiệp phải thấp hơn giá cả thị trường. * Chính sách giá hướng tới nhu cầu thị trường: Nghĩa là khi cầu trên thị trường về loại hàng hóa đó tăng thì Doanh nghiệp sẽ tăng giá để có thêm lợi nhuận. Tuy nhiên với chính sách giá này đòi hỏi Doanh nghiệp phải biết những thông tin về đối thủ cạnh tranh, bởi vì khi Doanh nghiệp tăng giá bán mà đối thủ cạnh tranh vãn giữ nguyên giá thì khách hàng sẽ tìm đến sản phẩm thay thế khác có giá thấp hơn. * Chính sách hướng tới sự cạnh tranh: Tức là khi cầu thị trường về loại sản phẩm của Doanh nghiệp tăng, Doanh nghiệp vẫn giữ nguyên mức giá cũ nhằm tăng thêm thị phần, giữ được khách hàng cũ, lôi kéo khách hàng của các đối thủ để tăng khả năng cạnh tranh trên thương trường. Ngoài việc áp dụng các chính sách giá trên thì căn cứ vào đặc điểm của sản phẩm để áp dụng một số chính sách giá sau: * Chính sách định giá thấp: Chỉ nên áp dụng với loại sản phẩm có đọ co giãn của cầu với giá lớn, chi phí giảm nếu khối lướngản phẩm gia tăng, sản phẩm phù hợp với tâm lý, tập quán và thói quen tiêu dùng. * Chính sách định giá theo thị trường: Thường được áp dụng đối với ssản phẩm có tính cạnh tranh hoàn hảo ( trên thị trường có nhiều người mua và người bán ). * Chính sách định giá cao: Thường áp dụng với sản phẩm cao cấp hay sản phẩm đặc biệt có chu kỳ sống ngắn. * Chính sách bán phá giá: Quy định mức giá thấp với mục đích tiêu thụ nhanh sản phẩm hoặc để tiêu diệt đối thủ cạnh tranh. 5. Các phương th
Tài liệu liên quan