Trong những năm gần đây, hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên sôi động và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đất nước đi lên, bắt kịp sự phát triển của thương mại toàn cầu. Trong đó, không thể không kể đến sự đóng góp của Ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam tuy ra đời sau Ngân hàng Trung Ương, nghĩa là có quá trình ra đời ngược lại với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng nó cũng thực hiện đầy đủ các chức năng và nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại giống như các ngân hàng thương mại khác trên thế giới. Với tư cách là tổ chức cung ứng vốn đáng tin cậy, nhanh chóng đối với tất cả các cá nhân và thành phần kinh tế trong xã hội, Ngân hàng thương mại đã trở thành trợ thủ đắc lực đối với sự phát triển của các ngành nghề trong nền kinh tế. Từ khi ra đời cho đến nay, Ngân hàng thương mại Việt Nam đã sát cánh cùng đất nước trong những giai đoạn thăng trầm, góp phần đáng kể đưa nền kinh tế nước nhà đạt đến mức độ phát triển như hiện nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, em xin đề cập đến “Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay” với những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục, cũng như những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trong toàn bộ hệ thống.
Vì hiểu biết có hạn và tài liệu thông tin sưu tầm chưa được đầy đủ nên bài viết này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được những ý kiến bổ sung chỉnh sửa của các thầy cô giáo.
24 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên sôi động và đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế đất nước đi lên, bắt kịp sự phát triển của thương mại toàn cầu. Trong đó, không thể không kể đến sự đóng góp của Ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam tuy ra đời sau Ngân hàng Trung Ương, nghĩa là có quá trình ra đời ngược lại với nhiều quốc gia khác trên thế giới nhưng nó cũng thực hiện đầy đủ các chức năng và nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại giống như các ngân hàng thương mại khác trên thế giới. Với tư cách là tổ chức cung ứng vốn đáng tin cậy, nhanh chóng đối với tất cả các cá nhân và thành phần kinh tế trong xã hội, Ngân hàng thương mại đã trở thành trợ thủ đắc lực đối với sự phát triển của các ngành nghề trong nền kinh tế. Từ khi ra đời cho đến nay, Ngân hàng thương mại Việt Nam đã sát cánh cùng đất nước trong những giai đoạn thăng trầm, góp phần đáng kể đưa nền kinh tế nước nhà đạt đến mức độ phát triển như hiện nay.
Trong khuôn khổ bài viết này, em xin đề cập đến “Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay” với những thành tựu đã đạt được và những hạn chế cần khắc phục, cũng như những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trong toàn bộ hệ thống.
Vì hiểu biết có hạn và tài liệu thông tin sưu tầm chưa được đầy đủ nên bài viết này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được những ý kiến bổ sung chỉnh sửa của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. KHÁI LUẬN CHUNG
1- Quá trình ra đời, vai trò và chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1- Quá trình ra đời của Ngân hàng thương mại
Từ xa xưa, khi con người phải tự mình chế tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt thì những sản phẩm đó có tính chất rất hạn chế. Dần dần, nhu cầu của con người ngày càng nhiều thêm, đòi hỏi cả về số lượng và chất lượng đã thúc đẩy sản xuất phát triển làm tăng năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm. Tuy nhiên một người không thể tự sản xuất ra đầy đủ mọi sản phẩm đáp ứng nhu cầu cho mình được. Trong khi đó, những sản phẩm họ làm ra lại dư thừa. Vì thế đã xuất hiện sự trao đổi hàng hoá giữa người thừa với người thiếu. Thế nhưng không phải lúc nào cũng có sự trùng lặp về nhu cầu nên đã hình thành một bộ phận người chuyên đêm hàng hoá đi trao đổi. Sự trao đổi được mở rộng giữa nhiều vùng với nhau. Qua những chuyến buôn bán này, xã hội đã hình thành nên những giai cấp khác nhau. Đồng thời, quá trình trao đổi trực tiếp không còn phù hợp nữa mà thay vào đó, cần thiết phải có vật ngang giá chung để trao đổi, đó chính là tiền tệ. Việc lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển, giai cấp địa chủ, quí tộc, nhà buôn nhờ thế càng trở nên giàu có và có nhu cầu cất trữ, bảo đảm an toàn cho số tiền của mình. Đầu tiên người làm nhiệm vụ này là những nhà kim hoàn. Họ nhận được một khoản phí và để tăng thêm thu nhập, họ kiêm luôn một số nhiệm vụ khác như thanh toán hộ và cho những người khác có nhu cầu vay để lấy lãi ( do khi nhận giữ tiền hộ, họ có trong tay những khoản tiền nhàn rỗi trong khi nhiều người lại cần tiền để làm ăn ). Các hoạt động này mang lại lợi ích cho mọi người nên càng ngày nó càng phát triển và trở thành ngân hàng sau này.
Trước thế kỉ V, các ngân hàng sơ khai ra đời với một số nghiệp vụ đơn giản như cân thử đổi tiền, nhận tiền gửi thanh toán và cho vay.. .. Các hoạt động ngân hàng được tiến hành tại các nước Châu âu, Trung Đông và Trung Hoa.
Từ thế kỉ V đến XVIII, các nghiệp vụ của ngân hàng phát triển và dần dần được hoàn thiện. Ngày càng có nhiều ngân hàng ra đời ở khắp các nơi trên thế giới. Tuy nhiên, các ngân hàng này hoạt động độc lập với nhau trong khi vẫn thực hiện những chức năng như nhau. Việc này đã dẫn đến tình trạng rối loạn khi phát hành giấy bạc. Có quá nhiều loại giấy bạc được lưu thông nên không thể tránh khỏi sự rắc rối trong quá trình mua bán hàng hoá giữa các quốc gia, gây cản trở cho việc mua bán và phát triển kinh tế. Chính điều này đã dẫn đến sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, chia làm hai nhóm: nhóm ngân hàng phát hành về sau trở thành Ngân hàng Trung Ương và nhóm Ngân hàng trung gian.
Hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi phải phân chia ngân hàng trung gian thành các ngân hàng hoạt động trong các lĩnh vực riêng: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng tiết kiệm....
Trong thời đại ngày nay, việc kinh doanh tiền tệ không còn là độc quyền của các ngân hàng mà còn có các tổ chức khác như công ty bảo hiểm, các hiệp hội tiết kiệm cho vay, tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán.... Tuy nhiên, trong đó Ngân hàng thương mại của bất cứ quốc gia nào vẫn là tổ chức tài chính lớn nhất, quan trọng nhất bảo đảm cung cấp đầy đủ các dịch vụ cho khách hàng so với các tổ chức khác trong giới kinh doanh tiền tệ.
Thực chất, Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh theo luật định ( có đăng kí kinh doanh và được cấp giấy phép kinh doanh ) với nhiệm vụ chính là nhận tiền gửi để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Ngân hàng thương mại được phân biệt với ngân hàng khác vì tổng tài sản của nó luôn là khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng và Ngân hàng thương mại là đơn vị duy nhất được phép mở tài khoản tiền gửi không kì hạn cho công chúng. Hiện nay, Ngân hàng thương mại được xem như một ngân hàng trung gian mà tỉ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số tài sản có của nó.
Ngân hàng thương mại có thể tồn tại ở nhiều dạng sở hữu khác nhau: có thể được thành lập bằng 100% vốn của tư nhân, 100% vốn của Nhà nước hoặc hùn vốn giữa tư nhân với nhà nước hoặc với người nước ngoài.
1.2- Chức năng của Ngân hàng thương mại
a) Chức năng trung gian tín dụng
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của Ngân hàng thương mại. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội. Do quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể thừa vốn và các chủ thể thiếu vốn gặp nhiều khó khăn nên hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại đã ra đời, góp phần khắc phục các khó khăn, hạn chế đó.
Để thực hiện chức năng này, một mặt Ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để cho những người thiếu vốn vay để sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại với vai trò là trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại nguồn vốn, điều hoà cung và cầu vốn trong nền kinh tế, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, động viên vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng ngân hàng là nơi tập trung đại bộ phận vốn nhàn rỗi, là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Ngay từ lúc hình thành, Ngân hàng thương mại đã có chức năng này. Thông qua đó, ngân hàng thực hiện chức năng xây dựng của mình, làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, từ đó góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Chức năng này phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát triển của ngân hàng đồng thời cũng là cơ sở để thực hiện các chức năng sau.
b) Chức năng trung gian thanh toán.
Với chức năng này, ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân bở ngân hàng là người giữ tài khoản của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Khi kinh tế càng phát triển, việc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng. Ngân hàng thực hiện chức năng này trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng, bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Sở dĩ các cá nhân, tổ chức muốn ngân hàng thực hiện những công việc này cho họ là vì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro do vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn.. .. Đặc biệt đối với những khách hàng ở xa thì nhu cầu nhờ ngân hàng thanh toán hộ càng cao.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khách hàng những công cụ thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ tín dụng.. .. Nhờ thế các chủ thể kinh tế tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian lại đảm bảo được thanh toán an toàn. Do đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và tốc độ lưu chuyển vốn, góp phần tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng không dùng tiền mặt đã làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông và tiết kiệm chi phí khác như in ấn, đếm nhận.. .. Đối với các ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán đồng thời làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
c. Chức năng tạo tiền.
Chức năng này được thực hiện dựa trên nguyên tắc nếu các ngân hàng thực hiện việc cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản thì hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một lượng tiền gửi mới làm cho tổng cung ứng tiền của nền kinh tế tăng lên.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay. Khách hàng sử dụng số tiền cho vay để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của họ vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch. Để thực hiện chức năng này, ngân hàng thương mại phải làm được chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản này mới coi là một bộ phận của lượng tiền giao dịch.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại không thể tạo tiền một cách tuỳ ý, mà thực tế, khả năng tạo tiền còn bị giới hạn bởi tỉ lệ dự trữ dư thừa và tỉ lệ rút tiền của công chúng so voứi lượng tiền gửi thanh toán.
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội. Chức năng nàycũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của nó, từ đó lượng tiền cung ứng cũng tăng thêm.
* Mối quan hệ giữa các chức năng.
Các chức năng có quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trong đó, chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
1.3- Vai trò của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại có đối tượng đầu tư rộng rãi và có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Trước hết, ngân hàng thương mại với ba chức năng là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Nhờ có chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng đã huy động dược số vốn nhàn rỗi trong xã hội đem cho vay dưới các hình thức khác nhau, đáp ứng nhu cầu vốn trong xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Còn chức năng trung gian thanh toán giúp cho ngân hàng thực hiện việc thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế một cách nhanh chóng, tiết kiệm. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, tiến bộ, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. Với chức năng tạo tiền, ngân hàng thương mại là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương. Ngân hàng thương mại tạo ra khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn cho nền kinh tế. Các công cụ của chính sách tiền tệ được thực hiện có hiệu quả với sự hợp tác tích cực của các ngân hàng thương mại thông qua việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc tăng cường hiệu quả cho vay và đầu tư.
Tuy các ngân hàng thương mại đều có chức năng và vai trò như nhau nhưng ở mỗi nơi, hoạt động của ngân hàng thương mại lại có các hình thức khác nhau. Vậy ở Việt Nam, ngân hàng thương mại hoạt động như thế nào?
2- Ngân hàng thương mại Việt Nam
Trước đây, do đất nước bị đô hộ nên nền kinh tế nước ta bị kìm kẹp trăm bề. Ngân hàng Đông Dương được xây dựng để phục vụ cho lợi ích của quân Pháp xâm lược. Vì thế, đại đa số nhân dân không thể trông chờ gì ở các chính sách của ngân hàng mà ngược lại, việc phát hành tiền tuỳ tiện lại càng gây khó khăn cho người dân.
Từ năm 1947, hệ thống tín dụng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bắt đầu được xây dựng và đi vào hoạt động. Nhiệm vụ đầu tiên của nó là góp vốn cho nhân dân phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, làm giảm tình trạng cho vay nặng lãi... Vốn hoạt động dựa vào ngân sách Nhà nước.
Năm 1951, chính phủ ra sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm thực hiện chức năng quản lí Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối... Đây là ngân hàng đầu tiên thực sự là của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Ngân hàng quốc gia Việt Nam được tổ chức theo quy mô lớn, quản lý hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc tập trung thống nhất, giữ vị trí trụ cột trong hệ thống tiền tệ, tín dụng của nước ta. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Hoạt động của ngân hàng đã góp phần đáng kể trong xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống tiền tệ, tín dụng, thích ứng với yêu cầu của từng thời kì phát triển, phát huy vai trò là công cụ có hiệu lực của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế.
Tiếp theo sự ra đời của Ngân hàng quốc gia là sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới dưới sự kiểm soát của nó. Những ngân hàng này hoạt động dựa trên ba chức năng của ngân hàng thương mại, thực hiện những nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng quốc gia góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng thương mại từ lúc ra đời đến nay đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú đã đóng góp ngày càng nhiều vào nền kinh tế, giúp cho kinh tế đất nước có nhiều bước tiến đáng kể. Trong đó, điển hình phải kể đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Đây là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi phải được thường xuyên cập nhật theo những chuyển biến của môi trường kinh tế. Nhưng nếu thực hiện tốt, hoạt động này sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế đất nước. Ngân hàng thương mại Việt Nam với hoạt động tín dụng của nó trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song cũng không thể trành khỏi những khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải đánh giá một cách đúng đắn những mặt tốt để phát huy và những điểm yếu để tìm ra phương hướng sửa chữa. Có thế mới giúp được cho hoạt động tín dụng phát triển đầy đủ lợi ích của nó, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế nước ta.
II- THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1- Tình hình hoạt động
Từ khi thành lập, ngân hàng nhà nước đã thực hiện chức năng cải tiến và mở rộng tín dụng bằng cách thực hiện cho vay vốn lưu động và vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tổ chức mở rộng cho vay. Ngoài ra, ngân hàng còn tiến hành cho vay tiền cũ, phát hành tiền mới nhằm thống nhất hệ thống tiền tệ trong cả nước, thúc đẩy kế hoạch hoá tổ chức sản xuất, phân công mới lao động xã hội.
Mới đầu, trong hệ thống ngân hàng thương mại chỉ có ngân hàng đầu tư và xây dựng được cho vay dài hạn. Các ngân hàng khác chủ yếu là cho vay ngắn hạn để phụ vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc có hiệu quả và phải được hoàn trả là đảm bảo cho việc kinh doanh của ngân hàng và có tác động tích cực đến việc củng cố hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian dài các ngân hàng thương mại không cho vay dài hạn bởi vì thiếu các công cụ để quản lý rủi ro nảy sinh. Không những thế, cho vay dài hạn còn dẫn đến tình trạng thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn.
Để thực hiện các nghiệp vụ dài hạn, ngân hàng thương mại để cho các tổ chức chuyên ngành như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... được tự do hoạt động với các nguồn vốn vay chủ yếu qua phát hành trái phiếu và tài trợ cho đầu tư qua huy động tiết kiệm gián tiếp. Các ngân hàng này có những nhiệm vụ khác nhau nhưng chủ yếu là củng cố và phát triển các ngàng kinh tế, từ công nghiệp đến nông nghiệp. Từ lúc ra đời, các ngân hàng này đã hoạt động hết sức tích cực, thực hiện cho vay vốn đối với các cá nhân, tổ chức trên toàn quốc. Đồng thời, nó cũng thực hiện đúng các chủ trương, chính sách cho Nhà nước và luôn hoạt động dưới sự kiểm soát, quản lý của Nhà nước và của Ngân hàng Trung Ương.
Nhu cầu tài trợ cho đầu tư nếu không được sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng thì sẽ không thể nào thoả mãn được. Vì vậy, các ngân hàng thương mại luôn cố gắng tìm các thể thức phù hợp và không ngừng mở rộng các khoản cho vay trung hạn và dài hạn để tiếp tục đổi mới hoạt động tín dụng của mình.
Cho đến hết năm 1994, một loạt thị trường mới ra đời hoạt động qua hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự quản lý của Nhà nước và tạo ra công cụ gián tiếp giúp ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Đó là những thị trường như thị trường tiền gửi, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ liên ngân hàng.. .. Từ đó đến nay, nhiều hình thức huy động vốn mới được áp dụng để tạo ra nguồn vốn trung hoặc dài hạn như phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, phát triển việc thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng... làm cho hoạt động tín dụng tăng cả về số lượng và loại hình. Khối lượng tín dụng của hệ thống thương mại hiện nay đã tăng gấp 4-5 lần so với những năm đầu đổi mới, đáp ứng một nguồn vốn lớn cho sự tăng trưởng kinh tế. Các ngân hàng thương mại không chỉ cho vay mà còn mở nhiều dịch vụ khác để phục vụ khách hàng như thuê mua, chiết khấu thương phiếu, tư vấn đầu tư.. ..
Chiết khấu thương phiếu giữ một vị trí then chốt trong các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Ngân hàng ứng trước trị giá của một thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại, ngân hàng nắm quyền sở hữu thương phiếu đó. Ngân hàng được trả lại khoản đã ứng trước đây bằng cách truy đòi khi thương phiếu đến hạn. Đầu năm 2000, pháp lệnh thương phiếu được ban hành. Tuy nhiên, pháp lệnh này chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên tính chất của chiết khấu thương phiếu vẫn chưa được sử dụng có hiệu quả.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại thường xuyên được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh, quản lý và luôn hướng cho hệ thống này ngày càng phát triển hơn nữa để hội nhập vào thị trường ngân hàng quốc tế, mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương mại đã được ngân hàng nhà nước đầu tư và xây dựng, tạo lập cơ sở vật chất, kĩ thuật tiên tiến và hiện đại, nhằm hiện đại hoá hệ thống ngân hàng thương mại. Kết quả, năm 1993, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã được trang bị những thành tựu của khoa học kĩ thuật. Hệ thống máy vi tính hiện đại đã lần lượt được đưa vào sử dụng trong ngân hàng để thu thập, xử lý, khai thác, truyền dẫn, lưu trữ thông tin, dữ liệu. Nhiều phần mềm ứng dụng do các ngân hàng tự thiết lập đã được sử dụng có hiệu quả. Nhờ có sự thay đổi to lớn này mà hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ngày càng phát triển mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Sự thay đổi trong hoạt động tín dụng thể hiện ở:
Hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử trong cả nước và thanh toán bù trừ qua máy vi tính giúp cho việc lưu thông tiền mặt được hạn chế. Nhờ vậy bảo đảm được an toàn khi vận chuyển, tiết kiệm chi phí giao dịch và đặc biệt là duy trì được nguồn vốn lớn để cho vay.
Áp dụng công nghệ mới trong thanh toán, nhất là việc áp dụng các loại thẻ tín dụng quốc tế như Master Card, Visa. JCB.. .. với doanh số gần 100 triệu USD mỗi năm.
Hệ thống vi tính trong thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị tr