Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được trình bày tóm tắt về đề tài: " Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam ".
21 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả.
Chúng ta đã trải qua 17 năm thực hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Với phương châm "đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ" và "sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng. Có rất nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong nước và ngoài nước đề cập đến vấn đề này. Đây là vấn đề rộng lớn và phức tạp, có cả những nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ báo cáo của mình, em xin phép được trình bày tóm tắt về đề tài: " Hội nhập kinh tế quốc tế và vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam ".
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………...…..1
I. KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
I1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế …………………………………...….3
1 Toàn cầu hoá………………………………………………………………………………...…3
2 Hội nhập quốc tế…………………………………………………………………………….....3
3 Thực chất về toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế………………...4
4 Bảo đảm được độc lập tự chủ trong hội nhập là có tính nguyên tắc và xuất phát……………..5
từ yêu cầu của thực tiễn
I2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam…………....……5
1.Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những cơ hội………………………………………..…….5
2.Những cơ hội của Việt Nam khi ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO …………..…….6
3. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những thách thức………………………………..……….8
4. Những thách thức của Việt Nam khi ra nhập WTO ………………………………..……........8
II. NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
1. Các quan điểm về hội nhập và nâng cao khả năng cạnh tranh………………………..……........ 9
2.Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong quá trình hội nhâp kinh tế quốc tế …………..…………...12
3. Những giải pháp cơ bản để nâng cao khả năng cạnh tranh………………………..……….........14
3.1. Tăng cường đổi mới kinh tế trong nước và vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước ……..….14
3.2. Cải thiện chính sách đầu tư gắn với điều chỉnh cơ cấu kinh tế ……………………….……15
3.3. Đẩy mạnh cải cách các doanh nghiệp nhà nước theo hướng nâng cao tính chủ động,
hiệu quả và khả năng cạnh tranh …………………………………………………….….......16
4. Giải quyết vấn đề mất việc làm và thay đổi ngành nghề của người lao động ……….…………17
5. Tăng cường cải cách hành chính …………………………………………………..……………18
KẾT LUẬN …………………………………………………………………………….……………....20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………..………………..21
I. KHÁI QUÁT VỀ TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
I1. Nhận thức chung về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế .
1) Toàn cầu hoá.
Ngày nay toàn cầu hoá hay thực chất là toàn cầu hóa kinh tế đang trở thành một xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế hiện đại. Hiện nay tuy có rất nhiều những quan niệm không giống nhau về toàn cầu hoá kinh tế nhưng có thể thấy nét chung nhất là thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện nay đã bao trùm gần như tất cả các nước, mang tính toàn cầu. Có thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là quá trình phát triển kinh tế của các nước trên thế giới vượt qua khỏi biên giới quốc gia, hướng tới phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học kỹ thuật mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng tăng.
Đi liền với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hoá cũng sớm hình thành phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực; đáp ứng nhu cầu “co cụm, tập hợp lực lượng” của từng khu vực để thích ứng với cạnh tranh toàn cầu. Vì vậy, hội nhập quốc tế đã diễn ra nhiều cấp độ khác nhau: Song phương, tam giác, tứ giác, tiểu khu vực, khu vực, liên khu vực, liên khu vực và toàn cầu; dưới nhiều phương thức đa dạng: Khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, diễn đàn hợp tác kinh tế bằng cơ chế ngày càng thông thoáng theo hướng tự do hoá. Cho đến nay đã hình thành và tổ chức kinh tế toàn cầu: Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)- gồm 182 thành viên, Ngân hàng thế giới (WB)-gồm 180 nước thành viên, Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- với 136 nước thành viên, và hàng trăm tổ chức kinh tế khu vực, liên khu vực. Có thể nói thế giới đã thật sự bước vào “cao trào hội nhập” với tốc độ ngày càng nhanh, với nhiều lĩnh vực ngày càng nhiều, với hình thức ngày càng đa dạng. Những nhân tố nói trên phát sinh từ toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tạo nên quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế mà không một ai có thể cưỡng lại được. Quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau cho phép phát huy các thế mạnh và bổ khuyết các thế yếu của nền kinh tế quốc gia, đồng thời góp phần củng cố tính độc lập tự chủ của nền kinh tế quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu.
2) Hội nhập quốc tế.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nước và quốc tế, mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nước.
- Các nước đều không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là phải đề ra được những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị trường nội địa. Để hội nhập có hiệu quả phải ra sức tăng cường nội lực, cải cách và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế trong nước để phù hợp với "luật chơi chung" của quốc tế.
Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến lược phát triển của đất nước, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập, đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế .
- Hội nhập không phải để được hưởng ưu đãi, nhân nhượng đặc biệt mà nhằm mở rộng các cơ hội kinh doanh , thâm nhập thị trường, có môi trường pháp lý và kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư. Các nước có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
- Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh nhận thức sâu sắc và ủng hộ hội nhập, chuẩn bị tốt mọi mặt để chủ động hội nhập từng bước, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nước để cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
Nhận thức đúng về hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế đối với các nước có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và giải pháp để chủ động hội nhập và tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
3) Thực chất về toàn cầu hóa kinh tế và vấn đề mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế
Mở cửa, hội nhập, toàn cầu hóa kinh tế là những bước đi của quá trình tham gia của một nước vào phân công lao động quốc tế. Xét từ góc độ sản xuất hàng hóa, mở cửa, hội nhập kinh tế là một quá trình phá bỏ tính chất tự cung, tự cấp, khép kín của một quốc gia và trong phạm vi quốc gia, để mở rộng giao lưu buôn bán với các quốc gia khác. Như vậy, kéo theo và vượt lên trên các quan hệ thương mại, thì sự phân công lao động quốc tế đang ngày một hiện hữu trong đời sống kinh tế thế giới. Việc một quốc gia tự xác định những giá trị mà mình đóng góp vào giá trị chung của nhân loại là vấn đề cực kỳ quan trọng hiện nay.
Vậy, về thực chất, toàn cầu hóa là hệ quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất với tính chất xã hội hóa ngày càng mang tính toàn cầu, mà động lực và tiền đề của nó là sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Cho dù toàn cầu hóa là quá trình phát triển chung của nhân loại, là một xu thế tất yếu, thì quá trình đó, cũng như các thành tựu của khoa học, công nghệ, luôn chịu ảnh hưởng mạnh của các thể chế chính trị.
Thực tế đã chỉ rõ, người ta ủng hộ rất mạnh thị trường tự do mỗi khi sản phẩm của họ có sức cạnh tranh mạnh, nhưng lại quay về "điều tiết" núp dưới mọi hình thức trá hình làm biến dạng thương mại để bảo vệ lợi ích quốc gia và sản xuất trong nước mỗi khi thấy tự do hóa không đem lại lợi ích gì (những động thái can thiệp của các nhà nước vào nền kinh tế ngày càng thể hiện rõ vai trò bà đỡ, người tạo luật chơi, nhất là lúc kinh tế suy thoái, khủng hoảng. Việc cắt giảm lãi suất của Cục dự trữ Liên bang Hoa Kỳ những tháng đầu năm 2008 là một ví dụ cụ thể).
Trong thương mại quốc tế, những gì họ chiếm ưu thế trong cạnh tranh thì quá trình tự do hóa diễn ra nhanh hơn, còn những gì bất lợi thì họ chần chừ, lẩn tránh dưới mọi thủ đoạn, làm biến dạng thương mại, trong đó Mỹ có nhiều vụ việc .
Bởi vậy, các thể chế trong hệ thống kinh tế toàn cầu vừa thống nhất trong đa dạng, vừa chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt. Thống nhất trên những mục tiêu cơ bản, nhưng lại mâu thuẫn trên những hành động thực dụng, đặc biệt là giữa các nước công nghiệp phát triển.
Bên cạnh đó tính chất hai mặt của mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa ngày càng bộc lõ rõ: một mặt, ngày càng đào sâu hố cách biệt giữa nước giàu và nước nghèo, nếu những năm 60 các nước công nghiệp hóa chỉ giàu gấp ba lần các nước đang phát triển, thì nay tỷ lệ đó đã tăng vọt lên 74 lần vào những năm đầu thiên niên kỷ XXI. Với đà mở rộng thương mại toàn cầu trong 25 năm gần đây, mức thu nhập bình quân đầu người ở các nước phát triển tăng 71%, trong khi ở các nước nghèo chỉ tăng được 6%. Mặt khác, nhiều nghiên cứu đã tổng kết là, một quốc gia nào đó đứng ngoài tiến trình này cũng có nghĩa là tự cô lập mình với thế giới, kinh tế không những không phát triển được, mà thậm chí còn ngày càng tụt hậu xa hơn.
4) Bảo đảm được độc lập tự chủ trong hội nhập là có tính nguyên tắc và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
Chủ trương của Việt Nam là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH), xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Có thể nói đây là tư tưởng chiến lược quan trọng, bởi vì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ một nước nông nghiệp, không qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta phải tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH
Công cuộc CNH, HĐH nền kinh tế nước ta đang diễn ra trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế, các quốc gia đều mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực chất đó là một nấc thang phát triển cao của lực lượng sản xuất, mà cụ thể là của quá trình phân công lao động quốc tế, và chính nó đang làm cho sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế tăng lên. Mặc dầu từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng (khoá VII) cũng đã đưa ra tư tưởng “giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo ấy, và Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII nêu quan điểm “…kiên trì đường lối kinh tế đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở…”, nhưng tại Đại hội IX, lần đầu tiên Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình tiến hành đổi mới, hội nhập, mở rộng quan hệ đối ngoại. Độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa, khép kín, bài ngoại mà là chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và quốc tế, không phụ thuộc vào sức ép từ bên ngoài. Đại hội khẳng định : “… trước hết là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có tiềm lực kinh tế đủ mạnh; có mức tích luỹ ngày càng cao từ nội bộ nền kinh tế; có cơ cấu kinh tế hợp lý, có sức cạnh tranh; kết cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và có một số ngành công nghiệp nặng then chốt; có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ; giữ vững ổn định kinh tế -tài chính vĩ mô ; bảo đảm an ninh lương thực, an toàn năng lượng, tài chính, môi trường…”[90-91,1]. Để có được quan điểm như vậy Đảng đã xuất phát từ kinh nghiệm thực tế của chúng ta và của nhiều quốc gia khác, từ nhận thức sâu sắc về nhiều mặt của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Quan niệm đó vừa đúng về mặt nguyên tắc, quan điểm, đường lối, vừa xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, không chỉ để bảo đảm có một nền chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh độc lập tự chủ vững chắc, giữ vững định hướng XHCN, mà còn là cơ sở bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước, làm cho việc mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
I2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam.
1-1.Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế : Những cơ hội.
Toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất mạnh, nhanh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác (chiếm 21,4%) và các dịch vụ (62,4%) trong cơ cấu kinh tế
thế giới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá được thể hiện rõ trong sự hình thành và gia tăng rất nhanh trao đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất, được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá làm tăng thêm sự phụ thuộc và tác động lẫn nhau giữa các nền kinh tế các nước. Toàn cầu hoá kinh tế làm cho kinh tế ở mỗi nước có thể trở thành bộ phận của các tổng thể, hình thành cục diện kinh tế thế giới mới.
Toàn cầu hoá kinh tế cũng làm giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực… giữa các nền kinh tế các nước, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế mỗi nước.
Toàn cầu hoá truyền bá và chuyển giao trên quy mô càng lớn những thành quả mới về khoa học và công nghệ, về tổ chức và quản lý, về sản xuất kinh doanh … dọn đường cho công nghệ hoá, hiện đại hoá.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá, vừa giúp các nước trong từng khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hoá, khu vực hoá cũng làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt chưa từng có.
Toàn cầu hoá đã và đang mang lại những cơ hội to lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia vào quá trình hội nhập:
- Hội nhập quốc tế tạo điều kiện để phát huy lợi thế so sánh, thúc đẩy việc tham gia vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ được lợi ích của việc phân bổ nguồn tài lực hợp lý trên bình diện quốc tế để từ đó phát huy cao độ nhân tố sản xuất hữu dụng của từng quốc gia.
- Tự do luân chuyển hàng hoá, dịch vụ và vốn với việc giảm hoặc xoá bỏ hàng rào thuế quan, đơn giản hoá thủ tục, cắt giảm kiểm soát hành chính sẽ góp phần giảm chi phí sản xuất, giảm thất nghiệp và tăng thêm lợi ích cho người tiêu dùng.
- Tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới, tăng nhanh vòng quay vốn và tạo điều kiện để đa dạng hoá các loại hình đầu tư, nâng cao hiệu quả, hạn chế rủi ro đầu tư.
- Thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ, chuyển giao vốn, kỹ năng quản lý, qua đó mở rộng địa bàn đầu tư cho các nước, đồng thời giúp các nước tiếp nhận đầu tư có thêm nhiều cơ hội phát triển.
1-2.Những cơ hội của Việt Nam khi ra nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO
Ngày nay, toàn cầu hóa đang là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Đại diện cho xu thế toàn cầu hóa này là sự ra đời và phát triển của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
Việt Nam là quan sát viên của GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại) và chính thức nộp đơn gia nhập WTO ngày 01 tháng tư năm 1995. Ngày 22/8/1996, Việt Nam đã gửi Bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam tới WTO. Tháng 7 / 1998, Việt Nam tiến hành phiên họp đa phương đầu tiên tới Nhóm công tác về minh bạch hóa các chính sách kinh tế thương mại. Cho tới nay, Việt Nam đã thực sự trở thành thành viên của WTO. Gia nhập WTO đã đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho Việt Nam, điều này được thể hiện ở các điểm sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ khắc phục được tình trạng bị phân biệt đối xử trong buôn bán quốc tế. Ví dụ như sự đối xử tối huệ quốc (MFN) không điều kiện, thuế quan thấp cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy việc thâm nhập thị trường cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, cải thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại với các nước, sự đối xử theo hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập và cũng có cải cách kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, các Hiệp định của Vòng đàm phán Uruguay đã đem lại cho Việt Nam các lợi ích như: đẩy mạnh thương mại và quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong gia nhập WTO và đảm bảo nâng cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong các hoạt động kinh tế và chính trị toàn cầu như là một thành viên của WTO.
Thứ hai, gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện mở rộng thị phần quốc tế cho các sản phẩm Việt Nam và thúc đẩy thương mại phát triển. Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng ra thế giới nhờ được hưởng những thành quả của các vòng đàm phán giảm thuế và hàng rào phi thuế, tăng cường tiếp cận thị trường của WTO, đặc biệt trong các lĩnh vực hàng dệt may và nông sản. Cơ hội xuất khẩu bình đẳng sẽ có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của các doanh nghiệp trong nước, sản xuất sẽ được mở rộng và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động.