Đề tài Hợp đồng bảo hiểm trùng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đối với mỗi quốc gia. Kinh doanh bảo hiểm được coi là một lá chắn kinh tế để bảo vệ cho các tổ chức cá nhân, đồng thời nó cũng góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước. Hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Kinh Doanh bảo hiểm năm 2000 và văn bản hướng dẫn thi hành. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm một cách kỹ lưỡng thông qua đó lý giải, phân tích, đánh giá và đề nghị hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực này đã có nhiều đề tài khoa học của sinh viên cũng như của cán bộ nghiên cứu, giảng dạy thực hiện nhưng vấn đề bảo hiểm trùng vẫn chưa có một đề tài nào nghiên cứu độc lập khai thác. Để góp phần làm rõ hơn về vấn đề này em đã chọn đề tài ''Hợp đồng bảo hiểm trùng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp cho mình. Với phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp em chỉ nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm trùng dưới các khía cạnh dân sự qua đó làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về hợp đồng bảo hiểm trùng, đưa ra các nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh.và dựa vào các quy định của pháp luật Dân sự, pháp luật Kinh Doanh bảo hiểm để xem xét, mổ xẻ vấn đề qua đó đưa ra cái nhìn tổng thể về hợp đồng bảo hiểm trùng.

doc61 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1477 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng bảo hiểm trùng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội đối với mỗi quốc gia. Kinh doanh bảo hiểm được coi là một lá chắn kinh tế để bảo vệ cho các tổ chức cá nhân, đồng thời nó cũng góp phần huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế của đất nước. Hiện nay hoạt động kinh doanh bảo hiểm chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2005, Luật Kinh Doanh bảo hiểm năm 2000 và văn bản hướng dẫn thi hành. Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo hiểm một cách kỹ lưỡng thông qua đó lý giải, phân tích, đánh giá và đề nghị hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực này đã có nhiều đề tài khoa học của sinh viên cũng như của cán bộ nghiên cứu, giảng dạy thực hiện nhưng vấn đề bảo hiểm trùng vẫn chưa có một đề tài nào nghiên cứu độc lập khai thác. Để góp phần làm rõ hơn về vấn đề này em đã chọn đề tài ''Hợp đồng bảo hiểm trùng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp cho mình. Với phạm vi của một khoá luận tốt nghiệp em chỉ nghiên cứu hợp đồng bảo hiểm trùng dưới các khía cạnh dân sự qua đó làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận và thực tiễn về hợp đồng bảo hiểm trùng, đưa ra các nhận xét, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, khoá luận đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh...và dựa vào các quy định của pháp luật Dân sự, pháp luật Kinh Doanh bảo hiểm để xem xét, mổ xẻ vấn đề qua đó đưa ra cái nhìn tổng thể về hợp đồng bảo hiểm trùng. Với phạm vi và mục đích nghiên cứu như trên khoá luận được kết cấu: Chương I: Lý luận chung về hợp đồng bảo hiểm dân sự. Chương II: Hợp đồng bảo hiểm trùng. Chương III. Thực trạng pháp luật về hợp đồng bảo hiểm trùng và hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp của mình em đã nhận được sự giúp đỡ động viên, hướng dẫn nhiệt tình của thầy cô, cha mẹ, và bạn bè. Qua đây cho em được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM DÂN SỰ 1. Khái niệm chung về hợp đồng dân sự Bảo hiểm dân sự là một loại hình bảo hiểm mà hoạt động của nó như một ngành kinh doanh dịch vụ và đã xuất hiện lâu đời trên thế giới nhưng cho đến nay vẫn chưa có một tên gọi thống nhất. Trong phạm vi khoá luận này chúng tôi sử dụng thuật ngữ bảo hiểm dân sự bởi lẽ: Đa phần các quan hệ của loại hình bảo hiểm này đều được hình thành từ ý chí tự nguyện, tự do cam kết của các bên chủ thể tham gia hợp đồng (trừ một số trường hợp pháp luật quy định khác). Khi hợp đồng bảo hiểm được xác lập nó làm xuất hiện các quyền và nghĩa vụ thuộc về đời sống dân sự của các chủ thể tham gia. Quan hệ này thực chất là hệ quả của một hợp đồng dân sự. Hay nói cách khác hợp đồng dân sự về bảo hiểm là phương tiện pháp lý để từ đó các chủ thể thiết lập với nhau một quan hệ bảo hiểm. Mặt khác theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam thì hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng dân sự thông dụng . Chính vì lẽ đó hợp đồng bảo hiểm được gọi là hợp đồng bảo hiểm dân sự. Các nước trên thế giới khi quy định về loại hợp đồng bảo hiểm này đã sử dụng các tên gọi khác nhau. Trong loại hình bảo hiểm này bên nhận bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ chi trả bảo hiểm khi người được bảo hiểm gặp rủi ro bất thường, nên một số nước gọi nó là bảo hiểm rủi ro. Mặt khác vì bản chất của loại hình bảo hiểm này như một ngành kinh doanh và đối tượng bảo hiểm của nó đa phần là những rủi ro xảy ra trong quá trình sản xuất kinh doanh, nên có nước gọi là bảo hiểm thương mại. Xét về bản chất đa phần các loại bảo hiểm này được hình thành một cách tự nguyện, chỉ bảo hiểm các tổn thất bất thường, mang đậm tính kinh doanh, chủ yếu là bảo hiểm các rủi ro trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thương mại nên việc sử dụng thuật ngữ bảo hiểm dân sự, bảo hiểm rủi ro, bảo hiểm kinh doanh hay bảo hiểm thương mại đều là một. Sản phẩm bảo hiểm là một loại sản phẩm vô hình. Doanh nghiệp bảo hiểm bán bảo hiểm cho khách hàng thông qua hợp đồng bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là một trong những hợp đồng thông dụng nên chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự, đồng thời nó còn chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh doanh bảo hiểm. Chính vì vậy khái niệm hợp đồng dân sự được nhìn nhận theo quy định của Bộ luật dân sự và Luật Kinh doanh bảo hiểm. Theo quy định tại điều 567 Bộ luật dân sự năm 2005 thì " hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xẩy ra sự kiện bảo hiểm ". Còn điều 12 luật kinh doanh bảo hiểm quy định cụ thể hơn "hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm". Qua quy định trên của pháp luật ta thấy rằng hợp đồng bảo hiểm dân sự chứa đựng các yếu tố sau: - Thứ nhất: hợp đồng bảo hiểm dân sự được hình thành thông qua hành vi của các bên chủ thể. Hợp đồng bảo hiểm dân sự được hình thành thông qua hành vi đề nghị giao kết và hành vi chấp nhận đề nghị giao kết. Đây cũng là đặc điểm hình thành của bất kỳ hợp đồng dân sự nào khác. Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông thường doanh nghiệp bảo hiểm là chủ thể đưa ra đề nghị giao kết, còn khách hàng là bên chấp nhận đề nghị giao kết. Nếu xét thấy việc tham gia bảo hiểm phù hợp với nhu cầu của mình thì khách hàng sẽ tham gia hợp đồng và đóng phí bảo hiểm. Trong trường hợp này bên tham gia bảo hiểm đã chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị của bên doanh nghiệp bảo hiểm. Nếu sau khi nắm được toàn bộ nội dung đề nghị của bên bảo hiểm và muốn tham gia loại hợp đồng bảo hiểm đó nhưng khách hàng lại không đồng ý với một phần nội dung của đề nghị đó thì họ sẽ đưa ra kiến về việc thay đổi phần nội dung đó. Trong trường hợp này bên đã đề nghị giao kết (doanh nghiệp bảo hiểm ), trở thành bên được đề nghị giao kết và nếu họ chấp nhận thay đổi phần nội dung theo đề nghị của bên tham gia thì hợp đồng được ký kết. Nếu họ không chấp nhận thì hợp đồng không được ký kết. - Thứ hai : hợp đồng bảo hiểm dân sự là sự thống nhất ý chí của các bên. Hành vi là phương tiện để thể hiện ý chí của chủ thể ra bên ngoài thế giới khách quan dưới một hình thức nhất định như hành động, lời nói. Hành vi của bên đề nghị giao kết hợp đồng chính là phương tiện để thể hiện nội dung của đề nghị. Hành vi của bên được đề nghị giao kết là phương tiện thể hiện ý chí có chấp nhận đề nghị của bên kia hay không, hoặc chấp nhận phần nội dung nào, sửa đổi phần nội dung nào. Khi các bên chấp nhận ý chí của nhau nghĩa là các bên đã đạt được sự thống nhất ý chí và khi đó hợp đồng được giao kết, hình thành. Theo nguyên tắc chung thì sự thoả thuận thống nhất ý chí giữa các bên trong một hợp đồng là không thể thiếu. Tuy nhiên trong hợp đồng bảo hiểm dân sự có loại hợp đồng mà quyền lợi được bảo hiểm là của người thứ ba, khi người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm dân sự đối với người này nên pháp luật đã quy định nó là hợp đồng bảo hiểm bắt buộc. Vì thế riêng đối với loại hợp đồng này không chứa đựng yếu tố tự do thoả thuận, tự nguyện ý chí của các bên chủ thể tham gia. - Thứ ba: Mục đích của hợp đồng bảo hiểm dân sự là thiết lập một quan hệ bảo hiểm. Trong hợp đồng bảo hiểm, bên tham gia bảo hiểm chấp nhận đóng cho bên nhận bảo hiểm một khoản tiền giọi là phí bảo hiểm, bên nhận bảo hiểm chấp nhận các rủi ro mà bên tham gia bảo hiểm (có thể là người thứ ba) gặp phải trong thời hạn còn hiệu lực của hợp đồng. Vì thế khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, tiến tới một quan hệ bảo hiểm sẽ hình thành giữa bên nhận bảo hiểm với bên tham gia bảo hiểm, trong đó bên tham gia bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm, còn bên nhận bảo hiểm có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ chi trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Như vậy giống như một hợp đồng dân sự bất kỳ, hợp đồng bảo hiểm cũng bao gồm ba yếu tố đó là: đề nghị giao kết hợp đồng, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng và thực hiện nghĩa vụ. Từ những khía cạnh trên chúng ta thấy rằng khái niệm về hợp đồng bảo hiểm dân sự được xem xét theo các phương diện sau: - Về phương diện khách quan: Hợp đồng bảo hiểm dân sự là sự quy định bằng pháp luật của Nhà nước để xác định các yếu tố liên quan đến quá trình hoạt động bảo hiểm nhằm qua đó ghi nhận và bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể trong quan hệ về bảo hiểm dân sự. - Về phương diện chủ quan: Hợp đồng bảo hiểm dân sự là một quan hệ dân sự trong đó các bên thoả thuận để đi đến việc cam kết cùng nhau thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với nhau trong các lĩnh vực bảo hiểm . Qua trên ta thấy rằng hợp đồng bảo hiểm dân sự là một dạng của hợp đồng dân sự, là cơ sở pháp lý để qua đó bên mua bảo hiểm chuyển dịch rủi ro từ mình sang bên nhận bảo hiểm theo thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh và đời sống khi gặp những tai nạn bất thường xảy ra. Với những bản chất trên hợp đồng bảo hiểm dân sự là cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện quá trình hoạt động kinh doanh của mình về lĩnh vực bảo hiểm. Đối với bên mua bảo hiểm, thì hợp đồng bảo hiểm được coi là một biện pháp dự phòng hiệu quả trong việc khắc phục những khó khăn đột xuất có thể xảy ra đối với mình. 2. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm dân sự Hợp đồng bảo hiểm dân sự là một dạng của hợp đồng dân sự nên nó có đầy đủ đặc điểm của một hợp đồng dân sự ngoài ra nó còn mang trong mình những đặc điểm riêng có của nó đó là: 2.1. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng có đền bù Hợp đồng có đền bù là loại hợp đồng mà trong đó mỗi bên chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được một lợi ích tương ứng từ họ. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng có đền bù bởi lẽ: Sau khi bên tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm thì sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm nhận bảo hiểm rủi ro cho mình. Ngược lại khi bên nhận bảo hiểm cam kết bảo hiểm cho một đối tượng bảo hiểm thì sẽ được bên tham gia bảo hiểm đóng cho mình một khoản phí bảo hiểm nhất định. 2.2. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng song vụ Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên chủ thể đều hưởng quyền và đều thực hiện nghĩa vụ. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Trường hợp hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng song vụ bởi: Bên bảo hiểm có quyền thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ các thông tin liên quan đến việc giao kết hợp đồng bảo hiểm... Bên bảo hiểm có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm; trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm... Còn bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ: đóng phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn; Kê khai đầy đủ trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm... Bên mua bảo hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm...  2.3. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự có điều kiện Hợp đồng là một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự. Một hợp đồng hợp pháp khi có hiệu lực pháp luật nó sẽ làm phát sinh một quan hệ nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia và các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ đó phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo phương thức và thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng. Thế nhưng trong hợp đồng bảo hiểm dân sự khi hợp đồng có hiệu lực thì chỉ bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ nộp phí bảo hiểm đầy đủ và đúng hạn còn bên doanh nghiệp bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường thiệt hại cho người được bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nếu như sự kiện bảo hiểm không xảy ra thì chỉ có bên mua bảo hiểm phải thực hiện nghĩa vụ còn bên doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm của mình. Như vậy hợp đồng bảo hiểm dân sự không phải là một hợp đồng có điều kiện mà chỉ là một hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ dân sự có điều kiện bởi vì: Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà khi giao kết các bên có thoả thuận về một điều kiện khi xảy ra thì làm phát sinh hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Trong hợp đồng bảo hiểm, điều kiện mà các bên thoả thuận chỉ là điều kiện để bên doanh nghiệp bảo hiểm có phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm hay không mà thôi, chứ nó không phải là điều kiện để làm phát sinh hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Tóm lại ta có thể kết luận hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ có điều kiện. 2.4. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là một hợp đồng chuyển dịch rủi ro Như chúng ta đã biết hợp đồng bảo hiểm là phương tiện để các bên thiết lập với nhau một quan hệ mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch rủi ro từ bên mua bảo hiểm sang bên nhận bảo hiểm. Mục đích của các bên tham gia trong đa số các hợp đồng dân sự là đều nhằm mục đích thiết lập một quan hệ dân sự để để thông qua đó thực hiện quá trình trao đổi lợi ích vật chất. Nhưng trong hợp đồng bảo hiểm, bên mua bảo hiểm nhằm thông qua quan hệ bảo hiểm để đạt được sự an toàn, bình ổn về tình trạng kinh tế của mình trong những trường hợp xuất hiện rủi ro gây ra tổn thất, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản của chính mình cũng như của người khác mà mình phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Mặt khác hợp đồng bảo hiểm dân sự còn là phương tiện pháp lý của quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Thông qua việc ký kết hợp đồng bảo hiểm và nhiều người tham gia bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng nguyên tắc lấy số đông bù số ít để thực hiện việc chia nhỏ tổn thất. Bằng cách này tổn thất được chia nhỏ cho nhiều người gánh đỡ, hay nói cách khác giữ được sự bình ổn về mặt kinh tế của người gặp rủi ro là do cộng đồng những người tham gia bảo hiểm vì họ là những người đóng góp tài chính thông qua việc đóng phí bảo hiểm. Tuy nhiên trong đó doanh nghiệp bảo hiểm đóng vai trò là người tập trung nguồn tài chính từ cộng động đồng người tham gia bảo hiểm thông qua quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm của mình. Như vậy với đặc điểm trên hợp đồng bảo hiểm mang tính cộng đồng, mang tính xã hội cao hơn nhiều so với các loại hợp đồng bảo hiểm khác 2.5. Hợp đồng bảo hiểm dân sự là hợp đồng dịch vụ "Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ". Người ta vẫn gọi bên tham gia bảo hiểm là bên mua bảo hiểm còn bên nhận bảo hiểm là bên bán bảo hiểm thế nhưng hợp đồng bảo hiểm không phải là hợp đồng mua bán để dịch chuyển tài sản, quyền sở hữu và cũng không phải là một hợp đồng mua bán quyền sử dụng mà hợp đồng bảo hiểm là một hợp đồng dịch vụ. Theo đó bên thuê dịch vụ (người tham gia bảo hiểm) phải trả tiền cho bên cung ứng dịch vụ (doanh nghiệp bảo hiểm) một khoản phí nhất định còn bên bảo hiểm cam kết thực hiện việc bảo hiểm cho một đối tượng xác định trong hợp đồng. Thế nhưng khác với hành vi dịch vụ trong các hợp đồng gia công, hợp đồng tư vấn pháp luật, hợp đồng vận chuyển kết quả luôn mang tính vật thể rõ ràng như: Trong hợp đồng gia công kết quả là một sản phẩm hữu hình, trong hợp đồng tư vấn pháp luật kết quả là một đơn kiện hay một bản hợp đồng...trong hợp đồng vận chuyển kết quả là khối lượng hành hoá, hành khách từ điểm này đến điểm khác, còn kết quả của hành vi bảo hiểm chỉ mang tính vô hình. Bởi hành vi bảo hiểm chỉ mang lại sự an toàn, bình ổn cho người được bảo hiểm mà nó không thể hiện thành một kết quả hữu hình có thể nhìn thấy rõ ràng hay cầm nắm được. 3. Phân loại hợp đồng bảo hiểm Như đã trình bày ở trên hợp đồng bảo hiểm dân sự là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự nên theo khoa học pháp lý dân sự thì có thể dựa vào nhiều tiêu chí để phân loại, như hợp đồng đơn vụ, hợp đồng song vụ, hợp đồng có đền bù, hợp đồng không có đền bù ... Nhưng trong phạm vi khoá luận này chúng tôi chỉ dựa vào hai tiêu chí để phân loại hợp đồng bảo hiểm dân sự nhằm đạt được mục đích nghiên cứu của mình đó là: 3.1. Phân loại theo ý chí của các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm Do hợp đồng bảo hiểm dân sự là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự nên nó mang trong mình bản chất đặc trưng của hợp đồng dân sự là yếu tố thoả thuận thống nhất ý chí, chính vì vậy đa phần các hợp đồng bảo hiểm đều được giao kết một cách tự nguyện. Thế nhưng bên cạnh tính tự nguyện, để đảm bảo lợi ích cho người thứ ba, pháp luật còn quy định một số chủ thể nhất định buộc phải tham gia hợp đồng bảo hiểm bắt buộc. Trong trường hợp này hợp đồng bảo hiểm được giao kết không còn là sự tự nguyện của người tham gia nữa mà là sự bắt buộc của nhà nước thông qua quy định của pháp luật. Vì thế dựa vào tiêu chí này thì hợp đồng được chia làm hai loại sau: - Một là hợp đồng bảo hiểm tự nguyện: Hợp đồng bảo hiểm tự nguyện là sự thoả thuận giữa các bên về các điều kiện bảo hiểm và mức phí bảo hiểm. Đây là loại hợp đồng bảo hiểm được giao kết theo ý nguyện của các bên và hoàn toàn dựa trên nguyên tắc thoả thuận. Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm hiện nay đây là loại hợp đồng bảo hiểm phổ biến và đa dạng. Tính tự nguyện của hợp đồng bảo hiểm này thể hiện ở chỗ ý muốn cũng như sự đòi hỏi của các bên chủ thể trong hợp đồng bảo hiểm là như nhau. Hay nói cách khác nó thể hiện ở chỗ các bên được quyền bình đẳng trong việc bày tỏ ý chí của mình. Trong quá trình xác lập hợp đồng bảo hiểm các bên không được dựa vào ưu thế kinh tế hoặc ý chí riêng của mình để áp đặt cho chủ thể bên kia, bắt ép chủ thể kia giao kết hợp đồng bảo hiểm trái ý chí của họ. Các chủ thể khác cũng không được phép can thiệp một cách bất hợp pháp vào việc xác lập hợp đồng này. Trong hợp đồng bảo hiểm tự nguyện hai bên chủ thể được tự do quyết định việc có tham gia hợp đồng bảo hiểm hay không, khi tham gia các bên có quyền thoả thuận nội dung của hợp đồng trên nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi. Chính từ sự bình đẳng về địa vị chủ thể và sự chia sẻ về lợi ích (hai bên cùng có lợi) đã dẫn các bên đi đến quyết định giao kết hợp đồng bảo hiểm. Trong thực tiễn hiện nay các doanh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra trước các vấn đề thuộc về nội dung của hợp đồng như mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm... nhưng việc làm này cũng không ảnh hưởng đến tính tự nguyện ý chí của bên tham gia bảo hiểm. Bởi lẽ quyền quyết định việc tham gia bảo hiểm hay không và tham gia với doanh nghiệp bảo hiểm nào vẫn do bên tham gia bảo hiểm quyết định. Trong môi trường cạnh tranh hiện nay thì người tham gia bảo hiểm có quyền tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm nào mà cảm thấy có lợi cho mình nhất. Việc người tham gia bảo hiểm chấp nhận các điều kiện tiêu chuẩn trong các điều khoản hợp đồng mà bên doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra trước chính là sự tự do ý chí của họ, họ đã tự do lưạ chọn là chấp nhận hoặc không chấp nhận. Họ cũng hoàn toàn có quyền thoả thuận lại các điều khoản đã nêu trong hợp đồng do phía doanh nghiệp bảo hiểm nêu ra và họ cũng có quyền thoả thuận thêm các vấn đề khác ngoài các điều khoản đã có miễn là sự thoả thuận đó không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người khác và không trái với đạo đức xã hội. Hiện nay do sự giao lưu hợp tác làm ăn với các nước trên thế giới, nhất là khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì ngày càng có nhiều chủ thể nước ngoài tham gia vào các quan hệ pháp luật, trong đó có các quan hệ pháp luật bảo hiểm. Có nhiều chủ thể là cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, họ có thể muốn được bảo hiểm theo điều kiện bảo hiểm của nước họ, hoặc các điều kiện khác ngoài phạm vi và điều kiện bảo hiểm của các d
Tài liệu liên quan