Đề tài Hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần hóa dầu petrolimex

Pháp luật là một công cụ quản lý của Nhà nước, được xây dựng nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những quy tắc xử sử chung. Mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước đều phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật. Đối với doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý luôn tồn tại và gắn liền với doanh nghiệp từ khi thành lập, trong quá trình hoạt động cho đến khi doanh nghiệp đó phá sản hoặc giải thể. Các vấn đề pháp lý trong doanh nghiệp có thể chia thành ba nhóm là: Các vấn đề pháp lý về hợp đồng trong kinh doanh - thương mại; Các vấn đề pháp lý về lao động và các vấn đề pháp lý khác (như tổ chức, quản lý, liên doanh, liên kết ). Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh về các sản phẩm hóa dầu. Hoạt động kinh doanh thương mại của Công ty được tiến hành rất thường xuyên, liên quan đến nhiều quy định pháp luật về thương mại. Trong đó, các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại có liên quan trực tiếp đến các giao dịch kinh doanh và là cơ sở để tiến hành mọi hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex hiện nay đang kinh doanh ba ngành hàng chủ yếu là dầu mỡ nhờn, nhựa đường và hóa chất. Dầu mỡ nhờn là ngành hàng được Công ty tiến hành kinh doanh đầu tiên và hiện nay đang là ngành hàng chủ chốt luôn chiếm từ 67-68% tổng doanh thu tiêu thụ cả ba ngành hàng. Các hợp đồng thương mại về dầu mỡ nhờn, cụ thể là hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn, là loại hợp đồng được thiết lập và thực hiện nhiều nhất cả về mặt số lượng và giá trị. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn đối với Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex, sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty, kết hợp với những kiến thức pháp luật về kinh tế đã được học tập, em đã chọn đề tài: "HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÓA DẦU PETROLIMEX". Trên cơ sở lí luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và những kết quả thực tiễn trong giao kết - thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty, đề tài này xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp Công ty đạt được hiệu quả cao hơn trong giao kết - thực hiện loại hợp đồng này. Nội dung đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa. Chương 2: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex. Chương 3: Một số khuyến nghị đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty.

doc70 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1627 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hợp đồng mua bán hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần hóa dầu petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Pháp luật là một công cụ quản lý của Nhà nước, được xây dựng nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo những quy tắc xử sử chung. Mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước…đều phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật. Đối với doanh nghiệp, các vấn đề pháp lý luôn tồn tại và gắn liền với doanh nghiệp từ khi thành lập, trong quá trình hoạt động cho đến khi doanh nghiệp đó phá sản hoặc giải thể. Các vấn đề pháp lý trong doanh nghiệp có thể chia thành ba nhóm là: Các vấn đề pháp lý về hợp đồng trong kinh doanh - thương mại; Các vấn đề pháp lý về lao động và các vấn đề pháp lý khác (như tổ chức, quản lý, liên doanh, liên kết…). Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex là một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh về các sản phẩm hóa dầu. Hoạt động kinh doanh thương mại của Công ty được tiến hành rất thường xuyên, liên quan đến nhiều quy định pháp luật về thương mại. Trong đó, các vấn đề pháp lý về hợp đồng thương mại có liên quan trực tiếp đến các giao dịch kinh doanh và là cơ sở để tiến hành mọi hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex hiện nay đang kinh doanh ba ngành hàng chủ yếu là dầu mỡ nhờn, nhựa đường và hóa chất. Dầu mỡ nhờn là ngành hàng được Công ty tiến hành kinh doanh đầu tiên và hiện nay đang là ngành hàng chủ chốt luôn chiếm từ 67-68% tổng doanh thu tiêu thụ cả ba ngành hàng. Các hợp đồng thương mại về dầu mỡ nhờn, cụ thể là hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn, là loại hợp đồng được thiết lập và thực hiện nhiều nhất cả về mặt số lượng và giá trị. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn đối với Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex, sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty, kết hợp với những kiến thức pháp luật về kinh tế đã được học tập, em đã chọn đề tài: "HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN HÓA DẦU PETROLIMEX". Trên cơ sở lí luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và những kết quả thực tiễn trong giao kết - thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty, đề tài này xin đưa ra một số khuyến nghị nhằm giúp Công ty đạt được hiệu quả cao hơn trong giao kết - thực hiện loại hợp đồng này. Nội dung đề tài được chia thành 3 chương: Chương 1: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa. Chương 2: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty cổ phần Hóa dầu Petrolimex. Chương 3: Một số khuyến nghị đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán dầu mỡ nhờn tại Công ty. CHƯƠNG 1 CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ 1.1. Cơ sở pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa. Pháp luật về hợp đồng kinh tế đã có rất nhiều thay đổi trong thời gian qua, những sửa đổi, bổ sung đó là hoàn toàn phù hợp với bối cảnh hội nhập hiện nay của đất nước. Đối với chế định về hợp đồng mua bán hàng hóa được điều chỉnh và hoàn thiện dần theo xu hướng của pháp luật quốc tế, nhất là phù hợp với Công ước Viên 1980 của Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán quốc tế. Việc xây dựng một chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế hoàn chỉnh đã được quan tâm đến khi nước ta bắt đầu chuyển hướng phát triển nền kinh tế. Tháng 12/1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ra quyết định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng chuyển đổi nền kinh tế hế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi phải có những chính sách, chế độ, có một công cụ pháp luật tiến bộ và phù hợp nhằm thực hiện hiệu quả việc đổi mới nền kinh tế, đồng thời mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Do vậy, ngày 25/09/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, bước đầu xây dựng một chế độ pháp lý về hợp đồng kinh tế. Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 cũng đưa ra những quy định về hợp đồng dân sự. Đến năm 1997, khi Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 10/05/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại. Trên thực tế cho thấy, các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại vẫn chủ yếu căn cứ vào Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989. Có thể thấy, các vấn đề pháp lý về hợp đồng được quy định trong ba văn bản: Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 1995 và Luật Thương mại 1997. Trong các văn bản này lại có những quy định không thống nhất và cũng không có các quy định về mối quan hệ gữa các văn bản với nhau, do đó đã khiến cho người áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật về hợp đồng. Và cho đến nay, khi các hoạt động kinh tế càng phát triển và trở nên phức tạp thì các văn bản này không còn phù hợp nữa, yêu cầu hoàn thiện và đổi mới các quy định của pháp luật về hợp đồng là vấn đề hết sức cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện hiện nay. Ngày 14/06/2005, Bộ luật Dân sự mới đã được Quốc hội khóa 11 thông qua và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Bộ luật Dân sự 2005 được ban hành thay thế cho Bộ luật Dân sự 1995 và Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989. Đây được coi là đạo luật chung, áp dụng cho tất cả các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại tạo sự thống nhất về pháp luật, đặc biệt trong việc điều chỉnh những quan hệ hợp đồng. Theo đó, những quy định của Bộ luật Dân sự 2005 về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc là nội dung cơ bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung. Còn khi các chủ thể ký kết các hợp đồng đặc thù thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành thì sẽ áp dụng các quy định trong các luật chuyên ngành. Luật Thương mại năm 1997 cũng được thay thế bởi Luật Thương mại mới được Quốc hội thông qua ngày 14/06/2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. Đây là nguồn luật chính điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Theo Luật Thương mại 2005, hợp đồng thương mại có thể chia thành hai nhóm là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ. Như vậy, đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, nguồn luật chủ yếu điều chỉnh hiện hành là: Bộ luật Dân sự 2005 là nguồn luật gốc cho tất cả các quan hệ hợp đồng Luật Thương mại 2005 quy định những vấn đề cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa. Khi có những vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa mà Luật Thương mại không quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài trong kinh doanh, thương mại được điều chỉnh bởi nhiều nguồn luật khác nhau như luật quốc gia, các điều ước quốc tế và các tập quán quốc tế. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa theo Luật Thương mại 2005. 1.2.1. Khái niệm. Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận thanh toán; người mua có nghĩa vụ thanh toán cho người bán và nhận hàng hóa theo thỏa thuận của hai bên. Hoạt động mua bán hàng hóa được thể hiện dưới hình thức pháp lý là các hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong Luật Thương mại 2005 không đưa ra khái niệm cụ thể về hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng có thể hiểu rằng hợp đồng mua bán hàng hóa là thỏa thuận giữa các thương nhân (hoặc một bên là thương nhân) về việc thực hiện hoạt động mua bán hàng hóa nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. 1.2.2. Những đặc điểm cơ bản của hợp đồng mua bán hàng hóa. 1.2.2.1. Về chủ thể của hợp đồng. Các chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa tương ứng là bên mua và bên bán trong quan hệ hợp đồng này. Theo Luật Thương mại 2005, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được giao kết giữa các thương nhân hoặc ít nhất một bên là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc lập. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng mua bán hàng hóa còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. 1.2.2.2. Đối tượng của hợp đồng. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là những hàng hóa được quy định tại Khoản 2 - Điều 3 - Luật Thương mại 2005 bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai. Còn trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thì đối tượng của hợp đồng là những hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật của nước bên mua và bên bán. Theo quy định hiện hành, thương nhân có thể mua bán, xuất nhập khẩu tất cả các hàng hóa không phụ thuộc vào ngành nghề được ghi trong giấy phép kinh doanh, trừ những hàng hóa thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh. Đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thương mại hạn chế kinh doanh; danh mục hàng hóa, dịch vụ thương mại kinh doanh có điều kiện thì thương nhân phải thực hiện đầy đủ quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hóa đó trước khi tiến hành xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định của Điều 25 - Luật Thương mại. 1.2.2.3. Nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa gồm những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Các bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng phải bảo đảm là những nội dung hợp pháp với các điều khoản rõ ràng, cụ thể, có tính hiện thực cao. Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi. - Điều khoản chủ yếu: Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên, làm cơ sở cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã được xác lập. - Điều khoản thường lệ: Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng như pháp luật đã quy định. - Điều khoản tùy nghi: Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên, căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong khuôn khổ của pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa cần chứa đựng đầy đủ các nội dung cơ bản sau: - Tên hàng; - Số lượng; - Quy cách chất lượng; - Giá cả, phương thức thanh toán; - Địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải có thêm những điều khoản để đảm bảo quyền lợi cho các bên không có chung một hệ thống pháp luật như điều khoản về chọn Luật áp dụng hay cơ quan và nơi giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận, đòi hỏi nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy cần thận trọng soạn thảo nội dung hợp đồng. Chẳng hạn, đối với điều khoản về tên hàng, kèm theo tên cần có mã số và mẫu hàng; đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần chọn những đơn vị đo lường thống nhất, trong trường hợp không có đơn vị thống nhất, cần có điều khoản giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán… 1.2.2.4. Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định của Luật Thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Riêng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. 1.2.3. Phân loại. Theo đặc điểm của các giao dịch mua bán hàng hóa có thể chia thành ba loại sau: 1.2.3.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường: Là hợp đồng mua bán hàng hóa mà các bên chủ thể của hợp đồng thực hiện các giao dịch về mua bán hàng hóa với nhau trên lãnh thổ Việt Nam. 1.2.3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: Là hợp đồng mua bán hàng hóa có thêm yếu tố quốc tế - là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia. Tại Điều 27 - Luật Thương mại quy định: "Mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu". Hợp đồng mua bán hàng hóa là một hình thức pháp lý của quan hệ thương mại quốc tế, cụ thể là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế. Do vậy, pháp luật điều chỉnh loại hợp đồng này tương đối phức tạp, bao gồm các điều ước về mua bán hàng hóa quốc tế, các tập quán quốc tế về thương mại và pháp luật của các quốc gia. 1.2.3.3. Hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết thông qua Sở giao dịch hàng hóa: Quy định về mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là một hoạt động thương mại mới được bổ sung tại Luật Thương mại 2005, đây là một hoạt động phổ biến trong thực tiễn thương mại quốc tế nhằm bảo hiểm các rủi ro do việc biến động giá cả trên thị trường. Mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó các bên thỏa thuận thực hiện việc mua bán một lượng nhất định của một loại hàng hóa nhất định qua Sở giao dịch hàng hóa theo những tiêu chuẩn của Sở giao dịch hàng hóa với giá được thỏa thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng và thời gian giao hàng được xác định tại một thời điểm trong tương lai (Điều 63 - Luật Thương mại). Theo Điều 64 - Luật Thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa bao gồm hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng quyền chọn: - Hợp đồng kỳ hạn là thỏa thuận, theo đó bên bán cam kết giao và bên mua cam kết nhận hàng hóa tại một thời điểm trong tương lai theo hợp đồng. - Hợp đồng về quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán là thỏa thuận, theo đó bên mua quyền có quyền được mua hoặc được bán một hàng hóa xác định với mức giá định trước (gọi là giá giao kết) và phải trả một khoản tiền nhất định để mua quyền này (gọi là tiền mua quyền). Bên mua quyền có quyền chọn thực hiện hoặc không thực hiện việc mua hoặc bán hàng hóa đó. 1.3. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. 1.3.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại văn bản có tính chất pháp lý được hình thành trên cơ sở thoả thuận một cách bình đẳng, tự nguyện giữa các chủ thể nhằm xác lập, thực hiện và chấm dứt một quan hệ trao đổi hàng hoá. Khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, các chủ thể phải tuân theo các nguyên tắc sau đây: 1.3.1.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Nguyên tắc tự do hợp đồng cho phép các cá nhân, tổ chức được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng và việc ký kết hợp đồng với ai, như thế nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp đồng phải xuất phát từ ý muốn chủ quan và lợi ích của các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận muốn được pháp luật bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ, dẫn đến tranh chấp thì phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng tới việc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. 1.3.1.2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác trung thực và ngay thẳng. Theo nguyên tắc này, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa và phải bảo đảm nội dung của quan hệ đó thể hiện được sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ của các bên, bảo đảm lợi ích cho các bên chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, tổ chức dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Khi hợp đồng mua bán hàng hóa đã được xác lập thì phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ tương xứng giữa các chủ thể, có thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm phải xử lý. Sự bình đẳng được đề cập ở đây là sự bình đẳng pháp lý, sự bình đẳng trước pháp luật chứ không phải là sự bình đẳng về mặt kinh tế giữa các chủ thể. Dựa trên cơ sở tự nguyện cùng nhau giao kết hợp đồng nhưng nếu giữa các bên không có thiện chí, thiếu sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác lập hợp đồng này không mang lại lợi ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Thêm vào đó trong giao kết hợp đồng các bên phải thể hiện sự trung thực, ngay thẳng thì mới có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa cũng như các quan hệ dân sự. 1.3.2. Phương thức giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết bằng các phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. 1.3.2.1. Ký kết bằng phương thức trực tiếp Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng. Nếu có thỏa thuận về hình thức của hợp đồng phải được lập dưới dạng văn bản, thì sau khi thống nhất nội dung của hợp đồng các bên cùng ký tên vào văn bản hợp đồng đó. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật Thương mại quy định phải được thể hiện dưới hình thức là văn bản. Hợp đồng mua bán hàng hóa được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. 1.3.2.2. Ký kết bằng phương thức gián tiếp Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử…trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn: - Chào hàng Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoạn này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là chào bán hàng hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng. Luật Thương mại không quy định hình thức bắt buộc của chào hàng nói chung, song để chuyển tải được những nội dung cần thiết và tránh hiểu lầm, nhất là khi các bên có tiếng nói khác nhau thì hình thức văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức văn bản không phải là điều kiện bắt buộc để chào hàng có hiệu lực. Bên chào hàng có trách nhiệm đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn bộ chào hàng và trả lời chấp nhận trong thời hạn được quy định trong chào hàng thì quan hệ hợp đồng đã được hình thành. Nếu bên nhận được chào hàng có những đề nghị thay đổi nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Nếu bên được chào hàng chỉ thay đổi những nội dung không chủ yếu thì chào hàng được coi là đã được chấp nhận, trừ trường hợp người chào hàng ngay lập tức từ chối những thay đổi đó. Chào hàng hết hiệu lực khi thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc chào hàng bị từ chối. Chào hàng cũng có thể được coi là bị từ chối nếu chào hàng này không được chấp nhận một cách vô điều kiện mà bị bên nhận được chào hàng đưa ra những yếu cầu mới. Về mặt thực tế, chào hàng đương nhiên được coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì một nguyên nhân nào đó mà ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định, đã không tham gia kinh doanh nữa. Đó có thể là trường hợp bên chào hàng bị giải thể, bị phá sản, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. - Chấp nhận chào hàng Chấp nhận chào hàng là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phải là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu
Tài liệu liên quan