Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín, mà là tích cực mở rộng quan hệ kinh tế với các nước. Đó là xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ và sản phẩm
85 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Sơn Chinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là nền kinh tế khép kín, mà là tích cực mở rộng quan hệ kinh tế với các nước. Đó là xu thế tất yếu của thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ và sản phẩm… chúng ta mở rộng tăng cường liên doanh, liên kết. Hợp tác là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Do đó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp trong nước phải thường xuyên cải tiến mẫu mã, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, sử dụng tiết kiệm hợp lý chi phí, giảm giá thành sản xuất sản phẩm của mình.
Trong một doanh nghiệp, giá thành hạ là cơ sở để xác định giá bán hợp lý, đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm, thực hiện tốt quá tình sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng. Trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế việc hạ thấp giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sản xuất sẽ đem lại tiết kiệm cho xã hội, tăng tích luỹ cho nền kinh tế tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Vậy vấn đề tiết kiệm chi phí, hạ giá thành không chỉ là vấn đề của doanh nghiệp mà còn là của xã hội.
Xuất phát từ đó, công ty TNHH Sơn Chinh là một doanh nghiệp đã và đang phát triển về nhiều mặt, công ty đã không ngừng đầu tư chiều sâu, lấy chất lượng sản phẩm làm hàng đầu, hạ giá thành và giá bán, tiêu thụ sản phẩm rộng rãi trên thị trường. Rõ ràng một trong những công cụ quản lý tạo nên thành công ở công ty TNHH Sơn Chinh là công tác kế toán nói chung và kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Cùng với việc đổi mới chế độ kế toán của nhà nước, công ty đã cố gắng cải tiến phương pháp cho phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế hiện nay. Trước sự phát triển mạnh của công tác sản xuất, công tác kế toán của công ty vẫn còn một số mặt còn bổ sung, hoàn thiện. Xuất phát từ thực tế nói trên và được phép của cô hướng dẫn cũng như của ban lãnh đạo công tuy TNHH Sơn Chinh tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu đề tài: “Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Sơn Chinh” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Nội dung chuyên đề gồm ba phần
Phần I: Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất.
Phần II: Thực tế công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Sơn Chinh.
Phần III: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty TNHH Sơn Chinh.
Trong quá trình thực tập, mặc dù được sự giúp đỡ, chỉ bảo của các cô chú, anh chị trong phòng kế toán, cùng sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thị Mẽ đã giúp em hoàn thiện chuyên đề này. Nhưng vì thời gian có hạn và kiến thức chuyên môn của bản thân còn hạn chế nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý chỉ bảo của thầy cô và các cô chú trong phòng kế toán để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Phần Một
Lý luận chung về kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp sản xuất
I. Sự cần thiết phải tổ chức công tác kế toán chi phí và tính giá thành của sản phẩm.
1. Khái niệm chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất.
1.1. Chi phí sản xuất.
Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là quá trình biến đổi một cách có ý thức và có mục đích các yếu tố sản xuất đầu vào để tính giá thành các sản phẩm lao vụ dịch vụ đầu ra nhất định. Chi phí sản xuất có ý nghĩa quan trọng gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất. Số tiền chi ra để mua các yếu tố phục vụ cho quá trình sản xuất chính là chi phí để sản xuất ra sản phẩm. Vậy chi phí sản xuất là gì?
Trên góc độ nghiên cứu, quản lý khác nhau thì cách hiểu về chi phí cũng có sự khác nhau:
Đối với ngành quản trị: “Chi phí sản xuất là toàn bộ khoản tiền mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình sản xuất sản phẩm”.
Đối với kế toán: “ Chi phí sản xuất được thể hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã bỏ ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định”.
Mỗi doanh nghiệp để tiến hành sản xuất được bình thường tạo ra được những sản phẩm nhất định đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội thì không có gì có thể thay thế được. Đó là, phải kết hợp hài hoà ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất: tư liệu sản xuất, đối tượng lao động và sức lao động, Các yếu tố này tham gia vào các quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau từ đó hình thành nên các chi phí tương ứng như :
Chi phí khấu hao tài sản cố định.
Chi phí nguyên vật liệu.
Chi phí tiền lương phải trả cho người lao động.
Đây là ba yếu tố chi phí cơ bản cấu thành nên giá trị sản phẩm mới tạo ra. Trong đó, chi phí khấu hao tài sản cố định là chi phí lao động vật hoá, còn tiền lương phải trả cho người lao động là chi phí lao động sống.
Trong quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp, chi phí phát sinh thường xuyên, liên tục nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán thì chi phí sản xuất phải được tính toán và tập hợp theo từng thời kỳ, hàng tháng, quý, năm phù hợp với kỳ báo cáo.Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra để tiến hành sản xuất kinh doanh trong kỳ thì mới tính vào chi phí sản xuất trong kỳ, còn lại các khoản chi phí khác như:chi phí hao hụt về nguyên vật liệu ngoài định mức, lãi trả tiền vay về các khoản cho vay ngắn hạn …sẽ không phải là chi phí sản xuất kinh doanh. Như vậy, không phải tất cả các khoản chi tiêu đều là chi phí. Để hiểu rõ vấn đề này hơn chúng ta cần phải phân biệt giữa chi tiêu và chi phí.
Chi tiêu là sự tiêu dùng tài sản của đơn vị để thực hiện một hoạt động nhất định. Tổng chi tiêu trong kỳ của doanh nghiệp gồm: chi tiêu cho quá trình cung cấp và chi tiêu cho quá trình tiêu thụ.
Chi phí là biểu hiện bằng tất cả các khoản chi tiêu thực sự đã hao phí để đơn vị thực hiện quá trình sản xuất nhất định hoặc một loại sản xuất nhất định. Nó là những chi phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ hạch toán cụ thể chứ không phải là mọi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.
Chi phí và chi tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh chi phí. Không có chi tiêu thì không có chi phí. Giữa chúng có sự khác nhau về mặt lượng và thời gian. Chi phí là một phần chi tiêu của doanh nghiệp, mặt khác co những khoản chi tiêu chưa xảy ra hoặc đã xảy ra ở kỳ hạch toán trước được tính vào chi phí sản xuất của kỳ này. Có sự khác biệt này là vì trong các doanh nghiệp do đặc điểm và tính chất vận động, phương pháp chuyển dịch giá trị từng loại sản phẩm trong quá trình sản xuất và yêu cầu kỹ thuật hạch toán chung.
Thực chất, chi phí sản xuất trong doanh nghiệp là sự chuyển dịch vốn của các doanh nghiệp vào đối tượng tính giá thành nhất định. Về chất lượng, độ lớn của chi phí phụ thuộc vào hai yếu tố chủ yếu sau:
- Giá cả của tư liêu sản xuất và thù lao của một lao động hao phí.
- Khối lượng tư liệu sản xuất và lao động đã hao phí trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Vì vậy, chi phí ở các doanh nghiệp là một đại lượng vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan.
1.2. Phân loại chi phí.
Chi phí sản xuất có nhiều loại, nên để tiện cho công tác quản lí và hạch toán cần thiết phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Việc phân loại chi phí sản xuất giúp nhà quản trị dễ dàng hơn trong việc kiểm tra, phân tích quá trình phát sinh chi phí và hình thành sản phẩm, tính toán phương án sản xuất, tiết kiệm chi phí một cách tốt nhất để hạ giá thành sản phẩm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Về mặt hạch toán chi phí sản xuất thường được phân loại theo tiêu thức:
1.2.1.Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung kinh tế của chi phí.
Theo cách phân loại này, những chi phí có cùng nội dung kinh tế được sắp xếp chung vào một yếu tố chi phí. Mỗi yếu tố chi phí bao gồm những chi phí có nội dung kinh tế không phân biệt chi phí đã phát sinh ở đâu, ở lĩnh vực nào và mục đích sử dụng hoặc tác dụng của chi phí như thế nào. Vì vậy, cách phân loại này là cách phân loại chi phí theo yếu tố. Toàn bộ chi phí trong kỳ được chia thành những yếu tố chi phí như sau:
- Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm toàn bộ các chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, nhiên liệu, vật liệu, thiết bị… mà doanh nghiệp đã dùng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.
- Chi phí nhân công: bao gồm toàn bộ số tiền lương, tiền phụ cấp và các khoản trích theo lương như: BHYT, BHXH, KPCĐ được tính vào chi phí sản xuất theo tỉ lệ nhất định của công nhân sản xuất trong doanh nghiệp.
- Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ số tiền trích khấu hao của những TSCĐ dùng cho sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả cho các dịch vụ mua từ bên ngoài như: tiền điện, tiền nước, bưu phí.., phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
- Chi phí bằng tiền: là toàn bộ các chi phí khác bằng tiền mà doanh nghiệp phải chi ra cho hoạt động sản xuất trong kỳ ngoài bốn yếu tố chi phí trên.
ý nghĩa: Theo tiêu thức này cho phép hiểu rõ về kết cấu, tỷ trọng của từng loại chi phí sản xuất mà doanh nghiệp đã chi ra để lập bảng thuyết minh báo cáo tài chính, là cơ sở để phân tích chi phí, đánh giá tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất, là cơ sở cho việc xây dựng cung ứng vật tư, tiền vốn.
1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích, công dụng của chi phí.
Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích, công dụng của chi phí để chia thành các khoản mục chi phí khác nhau, những loại chi phí nào có cùng mục đích công dụng thì được xếp chung vào một khoản mục, không phân biệt chúng có nội dung kinh tế như thế nào. Bởi vậy cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí theo khoản mục. Toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ được chia thành các khoản mục như sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm các chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu… được sử dụng trực tiếp để sản xuất sản phẩm hay thực hiện công việc lao vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: là các chi phí phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm như tiền lương, các khoản phụ cấp, các khoản BHXH, BHYT, KPCĐ trích theo tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất.
- Chi phí sản xuất chung: bao gồm những chi phí dùng cho hoạt động sản xuất chung ở các phân xưởng, tổ đội sản xuất. Ngoài ra chi phí sản xuất chung còn bao gồm:
+ Chi phí nhân viên quản lý phân xưởng: phản ánh chi phí liên qua và phải trả cho nhân viên phân xưởng, tổ đội sản xuất như: tiền lương, tiền công, các khoản phụ cấp, trích bảo hiểm cho nhân viên quản lý.
+ Chi phí vật liệu: phản ánh chi phí vật liệu sử dụng chung như: vật liệu dùng để sửa chữa bảo dưỡng TSCĐ, vật liệu văn phòng và những vật liệu chung dùng cho nhu cầu quản lý chung ở phân xưởng, tổ đội.
+ Chi phí dụng cụ sản xuất:phản ánh chi phí về dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất ở phân xưởng, đội sản xuất như:khuôn mẫu dụng cụ, dụng cụ cầm tay, dụng cụ bảo hộ lao động.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định:Bao gồm toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ hữu hình và TSCĐvô hình, TSCĐ thuê tài chính sử dụng ở các phân xưởng tổ đội sản xuất như:khấu hao máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện truyền dẫn, nhà xưởng.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài:phản ánh những chi phí bằng tiền về lao vụ dịch vụ từ bên ngoài để phục vụ cho hoạt động sản xuất chung ở phân xưởng, tổ đội sản xuất như chi phí về tiền điện, nước, điện thoại, chi phí sửa chữa TSCĐ thuê ngoài.
+ Chi phí thuê bằng tiền khác: Bao gồm các chi phí bằng tiền khác trừ các chi phí đã nêu ở trên, phục vụ cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng, tổ đội sản xuất.
ý nghĩa: Theo cách phân loại này có tác dụng phục vụ cho công việc quản lý chi phí theo định mức, là cơ sở cho việc kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo khoản mục, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi phí sản xuất cho kỳ sau.
1.2.3. Phân loại chi phí theo mối quan hệ với khối lượng sản phẩm.
Căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí sản xuất vơi số lượng sản phẩm công việc lao vụ dịch vụ sản suất trong kỳ, chi phí sản xuất được chia thành hai loại:
Chi bí khả biến (biến phí): Là những chi phí có sự thay đổi về lượng tương quan tỷ lệ thuận với sự thay đổi khối lượng của sản phẩm sản xuất trong kỳ. Thuộc loại chi phí này là chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí cố định (định phí): Là những chi phí không thay đổi về lượng số dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất trong kỳ. Tuy nhiên, nếu trong kỳ có sự thay đổi về khối lượng sản phẩm sản xuất thì chi phí cố định trên một đơn vị sản phẩm sẽ biến động tương quan tỷ lệ nghịch với biến động của sản phẩm.
ý nghĩa: cách phân loại này có tác dụng lớn đối với quản trị kinh doanh để phân tích điểm hoà vốn và phục vụ cho việc ra các quyết định cần thiết hạ giá thành sản phẩm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2.4. Phân loại chi phí theo phương pháp tổng hợp chi phí sản xuất.
Theo cách này chi phí sản xuất được chia thành hai loại:
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí sản phẩm quan hệ trực tiếp với việc sản xuất ra một loại sản phẩm, một công việc nhất định. Những chi phí này có thể căn cứ vào số hiệu chứng từ ghi trực tiếp cho đối tượng chịu chi phí.
- Chi phí gián tiếp là những chi phí sản xuất có liên quan đến việc sản xuất nhiều loại sản phẩm, nhiều công việc, chi phí này kế toán cần phân bổ cho nhiều loại đối tượng có liên quan theo một tiêu thức thích hợp.
ý nghĩa: Cách phân loại này có ý nghĩa thuần tuý về mặt kỹ thuật hạch toán, tính chính xác của chi phí tập hợp từng đối tượng phụ thuộc vào tính hợp lý và khoa học của tiêu thức phân bổ chi phí được lựa chọn.
1.2.5. Phân loại chi phí theo yếu tố cấu thành chi phí.
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất chia thành hai loại:
- Chi phí đơn nhất: Là chi phí do một yếu tố duy nhất cấu thành như: Chi phí nguyên vật liệu chính dùng trong sản xuất, tiền lương công nhân sản xuất.
- Chi phí tổng hợp: Là những chi phí do nhiều yếu tố khác nhau tập hợp lại theo cùng một công dụng như chi phí sản xuất chung.
Tóm lại có nhiều cách thức khác nhau để phân loại chi phí. Mỗi cách phân loại lại có ý nghĩa riêng, phục vụ cho từng yêu cầu quản lý và từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể. Nhưng chúng luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả nhất toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ doanh nghiệp.
II. Giá thành và phân loại giá thành
1. Giá thành sản phẩm và các chỉ tiêu về giá thành.
Giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh và trình độ quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp. Việc tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, sử dụng hợp lý vốn sản xuất … Đều ảnh hưởng trực tiếp đến việc hạ giá thành. Do đó nhiệm vụ của kế toán giá thành là phải vận dụng phương pháp tính giá thành thích hợp để tính giá theo đúng khoản mục quy định và đúng kỳ. Xác định giá thành sản phẩm là biểu hiện toàn bộ các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá có liên quan tới khối lượng sản phẩm lao vụ đã hoàn thành.
Trong sản xuất, chi phí sản xuất chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí. Để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất thì phải xem xét chi phí sản xuất trong quan hệ thứ hai và là mặt cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh và kết quả thu được. Đó chính là chỉ tiêu giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm là chi phí sản xuất tính theo khối lượng hoặc một đơn vị sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất đã hoàn thành. Giá thành sản phẩm xác định cho từng loại sản phẩm,lao vụ dịch vụ cụ thể và chi phí tính toán xác định cho những lao vụ đã hoàn thành, kết thúc toàn bộ quy trình sản xuất (thành phẩm). Giá thành là một căn cứ quan trọng để định giá bán và xác định hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất, giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau vốn có bên trong đó là sản xuất đã chi ra và giá trị sử dụng đã thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm, lao vụ đã hoàn thành. Giá thành có hai chức năng chủ yếu đó là thước đo bù đắp chi phí và chức năng lập giá. Toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp chi ra để hoàn thành một khối lượng sản phẩm, công việc phải được bù đắp bằng đúng số tiền về bán sản phẩm, lao vụ. Tuy nhiên việc bù đắp các chi phí đầu tư vào đó mới chỉ đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn, mục đích sản xuất và nguyên tắc kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo trang trải mọi chi phí đầu tư vào quá trình sản xuất và phải có lãi. Vì vậy trong cơ chế thị trường giá bán sản phẩm không những phụ thuộc vào qui luật cung cầu, vào sự thoả thuận giữa doanh nghiệp với khách hàng mà phải dựa trên giá thành sản phẩm.
Ngoài hai chức năng quan trọng là bù đắp chi phí và xác định giá bán sản phẩm. Giá thành còn giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp lập kế hoạch kế hoạch kiểm tra, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để đưa ra các quyết định về đầu tư.
2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Giá thành sản phẩm gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có một tác dụng riêng. Do vậy để giúp cho công việc nghiên cứu và quản lý tốt giá thành cũng như yêu cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau, nhiều phạm vi tính toán khác nhau, kế toán cần phải phân biệt các loại giá thành. Cụ thể có hai cách phân loại như sau:
2.1 . Phân loại theo thời gian và cơ sở số liệu tính giá thành
Theo cách này giá thành được chia làm ba loại:
- Giá thành kế hoạch :Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch. Việc tính toán này là do bộ phận kế hoạch đảm nhiệm và tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm.
- Giá thành định mức:Là quá trình được tính trên cơ sở định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm trước khi quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm. Giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi định mức chi phí trong quá trình thực hiện kế hoạch.
- Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp trong kỳ cũng như sản lượng thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ có thể tính toán sau khi kết thúc quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, loại giá thành này là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm.
Cách phân loại này giúp việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt (hụt) định mức trong kỳ hạch toán từ đó đưa ra cách điều chỉnh cho phù hợp.
2.2 Phân loại giá thành theo phạm vi tính toán
Theo cách phân loại này trong kế toán tài chính cần phân biệt hai loại giá thành đó là giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất bao gồm các chi phí đã phát sinh trong quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành được thể hiện:
Giá thành sản xuất
=
Chi phí NVL trực tiếp
+
Chi phí nhân công trực tiếp
+
Chi phí sản xuất chung
Giá thành sản xuất của sản phẩm được sử dụng để hạch toán thành phẩm nhập kho và tính giá vốn hàng bán (trong trường hợp bán thẳng cho khách hàng không nhập kho) giá thành sản xuất là căn cứ để xác định giá vốn hàng bán và mức lãi gộp trong kỳ ở các doanh nghiệp.
- Giá thành toàn bộ là căn cứ để xác định mức lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Giá thành toàn bộ của sản phẩm chỉ được tính toán xác định khi sản phẩm, công việc, lao vụ được tiêu thụ. Bởi vậy giá thành toàn bộ được coi là giá thành tiêu thụ.
Giá thành
toàn bộ
Giá thành sản xuất
Chi phí
bán hàng
Chi phí quản lý
doanh nghiệp
+
= = += + +
Cách phân loại này giúp cho nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh (lãi lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên doanh nghiệp hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bảo hiểm và chi phi số lượng cho