Tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, không một doanh nghiệp sản xuất nào không quan tâm đến vấn đề hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Chỉ có tiêu thụ khi đó giá trị sử dụng của hàng hoá mới được thực hiện, lao động của toàn bộ doanh nghiệp mới được thừa nhận. Có thực hiện quản lý tốt hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp mới có điều kiện bù đắp chi phí đã chi ra trong quá trình sản xuất - tiêu thụ, đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và thực hiện giá trị của lao động thặng dư - thu lợi nhuận quyết định tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Là công cụ quan trọng và hiệu lực nhất để quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán nói chung và kế toán tiêu thụ hàng hoá nói riêng phải không ngừng được hoàn thiện.
Chuyển đổi thành Công ty - có tư cánh pháp nhân - từ năm 1992, trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các đơn vị cùng ngành, để tồn tại và phát triển Công ty Bút Bi Thiên Long đã sớm tiếp cận với những quy luật của nền kinh tế thị trường, quan tâm đẩy mạnh sản xuất, chú trọng chất lượng sản phẩm, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ. Song song với những điều đó bộ phận kế toán của Công ty cũng từng bước phát triển, hoàn thiện theo bề dày thời gian cũng như những biến đổi mới của hệ thống kế toán Việt Nam.
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tại Chi Nhánh Công ty TNHH sản xuất và thương mại Thiên Long, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường, không một doanh nghiệp sản xuất nào không quan tâm đến vấn đề hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Chỉ có tiêu thụ khi đó giá trị sử dụng của hàng hoá mới được thực hiện, lao động của toàn bộ doanh nghiệp mới được thừa nhận. Có thực hiện quản lý tốt hàng hoá và tiêu thụ hàng hoá, doanh nghiệp mới có điều kiện bù đắp chi phí đã chi ra trong quá trình sản xuất - tiêu thụ, đảm bảo quá trình tái sản xuất giản đơn và thực hiện giá trị của lao động thặng dư - thu lợi nhuận quyết định tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Là công cụ quan trọng và hiệu lực nhất để quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán nói chung và kế toán tiêu thụ hàng hoá nói riêng phải không ngừng được hoàn thiện.
Chuyển đổi thành Công ty - có tư cánh pháp nhân - từ năm 1992, trong điều kiện kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các đơn vị cùng ngành, để tồn tại và phát triển Công ty Bút Bi Thiên Long đã sớm tiếp cận với những quy luật của nền kinh tế thị trường, quan tâm đẩy mạnh sản xuất, chú trọng chất lượng sản phẩm, chủ động trong sản xuất và tiêu thụ... Song song với những điều đó bộ phận kế toán của Công ty cũng từng bước phát triển, hoàn thiện theo bề dày thời gian cũng như những biến đổi mới của hệ thống kế toán Việt Nam.
Trong thời gian thực tập tại Công ty Bút Bi Thiên Long, em đã đi sâu nghiên cứu về công tác tổ chức kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả của Công ty với đề tài:
" Kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả tại Chi Nhánh Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Thiên Long"
Mục tiêu của bản chuyên đề là vận dụng lý luận về kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả vào nghiên cứu thực tiễn ở Công ty Bút Bi Thiên Long, từ đó phân tích những vấn đề còn tồn tại nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác kế toán tại Công ty.
Đề tài được trình bày với kết cấu gồm ba phần chính:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả trong các doanh nghiệp thương mại.
Chương II: Tình hình thực tế về công tác tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả ở Chi nhánh Công ty Bút Bi Thiên Long- Hà Nội
ChươngIII: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả ở Công ty Bút Bi Thiên Long.
Đề tài được nghiên cứu và triển khai theo một hệ thống lôgíc. Với ý tưởng, phần I nhằm đưa ra cơ sở lý luận chung về tổ chức kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả, là căn cứ để so sánh đối chiếu với phần II, để từ đó có những nhận xét biện chứng và lý giải về những kiến nghị ở phần III.
Trong quá trình thực tập, em đã nhận được sự chỉ dẫn tận tình của PGS. TS Đặng Thị Loan cùng các cô, chú, anh, chị ... cán bộ phòng Tài chính kế toán Chi nhánh Công ty Bút Bi Thiên Long. Tuy nhiên do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tế chưa nhiều nên khó tránh khỏi thiếu sót, kính mong được sự chỉ đạo giúp đỡ của thày cô, chú, anh, chị trong phòng kế toán Công ty để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HÓA VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TRONG DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
I. Ý NGHĨA VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI .
1. Ý nghĩa của quá trình tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại.
1.1 . Khái niệm tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả :
Nét đặc trưng chủ yếu trong các doanh nghiệp thương mại là hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua việc tiêu thụ hàng hoá thu lợi nhuận. Tiêu thụ hàng hoá là một trong hai quá trình và là quá trình cuối trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Tiêu thụ hàng hoá là việc chuyển quyền sở hữu về hàng hoá lao vụ, dịch vụ từ doanh nghiệp này sang khách hàng khác và doanh nghiệp thu được tiền hoặc quyền thu tiền .
Số tiền thu được từ hoạt động tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp được gọi là doanh thu bán hàng, ở doanh nghiệp áp dụng tính thuế giá trị giá tăng theo phương pháp trực tiếp thì doanh thu bán hàng là giá trị thanh toán của số hàng đã bán bao gồm cả thuế . Ngoài ra doanh thu bán hàng còn bao gồm các khoản phụ thu như các khoản phí thu thêm ngoài giá bán, khoản trợ cấp trợ giá của nhà nước khi doanh nghiệp thực hiện cung ứng hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu nhà nước.
Để thực hiện mục đích kinh doanh của mình là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội về hàng hoá dịch vụ và thu lợi nhuận sau mỗi chu kỳ kinh doanh doanh nghiệp phải luôn tính toán, xác định chi phí bỏ ra và thu nhập thu về, hay nói cách khác doanh nghiệp phải xác định được kết quả sản xuất kinh doanh của mình, trong các doanh nghiệp thương mại đó chính là kết quả tiêu thụ hàng hoá. Như vậy kết quả tiêu thụ hàng hoá là khoản chênh lệnh giữa doanh thu bán hàng thu về với chi phí kinh doanh bỏ ra trong quá trình tiêu thụ hàng hoá.
1.2 . Ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ hàng hoá trong DNTM
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây với nét đặc trưng nổi bật là từ việc sản xuất tới tiêu thụ hoàn toàn do nhà nước quyết định các doanh nghiệp không cần quan tâm tới sản phẩm của mình sản xuất ra có được thị trường chấp nhận hay không mà chỉ quan tâm đến sản xuất cái gì mình sẵn có. Theo chỉ tiêu kế hoạch nước giao cho, doanh nghiệp không quan tâm tới hiệu quả sản xuất kinh doanh, lãi hay lỗ đã có nhà nước gánh chịu …Vì vậy mỗi doanh nghiệp phải năng động nhạy bén thích nghi với môi trường kinh doanh với mục tiêu hướng tới là thị trường, thị trường là xuất phát điểm, là đích để các doanh nghiệp chinh phục và khai thác. Để đạt được điều đó các doanh nghiệp phải làm tốt công tác bán hàng, tiếp cận thị trừơng để tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại thì hoạt động tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa cực kì quan trọng. Trong doanh nghiệp thương mại hoạt động tiêu thụ hàng hoá là hoạt động chủ yếu cuối cùng và quan trọng nhất, nó giúp cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và là cơ sở xác định kết quả kinh doanh sau này.
Đối với bản thân doanh nghiệp : Thực hiện tốt công tác tiêu thụ hàng hoá giúp cho doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh, làm cho tốc độ chu chuyển vốn lưu động nhanh, từ đó doanh nghiệp không bị chiếm dụng vốn và tiết kiệm chi phí về vốn.
Doanh nghiệp có bán được hàng thì mới có doanh thu bù đắp chi phí, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước và các đối tượng khác có liên quan và cao hơn là thực hiện giá trị thặng dư, từ đó giúp các nhà quản trị biết được tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình và đưa ra các quyết định phù hợp.
Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp đóng vai trò là một đơn vị kinh tế cơ sở. Sự lớn mạnh của doanh nghiệp góp phần ổn định và phát triển toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu chung của toàn quốc gia. Hàng hoá của doanh nghiệp được lưu thông trên thị trường đồng nghĩa với việc hàng hoá của doanh nghiệp được xã hội chấp nhận hơn thế nữa là doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường Mặt khác thực hiện tốt quá trình bán hàng góp phần điều hoà giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng, giữa cung và cầu và là điều kiện đảm bảo sự phát triển cân đối trong ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân .
1.3. Vấn đề quản lý quá trình tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại
Quản lý hoạt động tiêu thụ hàng hoá là quản lý hoạt động quản lý theo đúng kế hoạch tiêu thụ, có như vậy mới thực hiện cân đối giữa cung và cầu, đảm bảo cân đối sản xuất trong từng ngành và trong nền kinh tế. Quản lý bán hàng cần bám sát các yêu cầu cơ bản sau đây
- Về khối lượng hàng hoá tiêu thụ: phải nắm chính xác số lượng từng loại hàng hoá tồn đầu kỳ, nhập trong kỳ và xuất tiêu thụ và lượng dự trữ cần thiết để có kế hoạch cung ứng kịp thời cho nhu cầu thị trường. Bộ phận quản lý hàng hoá xuất bán phải thường xuyên đối chiếu với thủ kho về số lượng hàng hoá luân chuyển cũng như như tồn kho.
- Về giá vốn của hàng xuất kho : Đây là toàn bộ chi phí cấu thành nên hàng hoá và biểu hiện ở mặt giá trị hàng hoá. Đó là cơ sở xác định giá bán và tính toán hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Vấn đề xác định kết quả tiêu thụ trong doanh nghiệp thương mại
2.1. Các chỉ tiêu liên quan đến kết quả tiêu thụ:
Tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT, nội dung các chỉ tiêu liên quan đến kết quả tiêu thụ có sự khác nhau. Đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, các chỉ tiêu tạo nên kết quả tiêu thụ như doanh thu, các khoản giảm trừ doanh thu, các chi phí trong quá trình tiêu thụ sẽ không có thuế GTGT đầu ra hoặc được khấu trừ.
- Ngược lại, đối với các doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thì các khoản chi phí bao gồm cả thuế GTGT đầu vào và giá bán hàng hóa là giá bán đã bao gồm cả thuế GTGT. Vì thế các chứng từ doanh thu bán hàng, giảm giá, hàng bán trả lại đều bao gồm thuế GTGT đầu ra.
* Các chỉ tiêu liên quan đến việc xác định kết quả tiêu thụ.
- Doanh thu bán hàng: Là tổng giá trị được thực hiện do việc tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm cho khách hàng trong một thời gian nhất định. Doanh thu bán bàng là số tiền ghi trên hóa đơn bán hàng, trên các hợp đồng cung cấp hàng hóa, sản phẩm.
- Doanh thu thuần: Là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm giá, doanh thu của số hàng bán bị trả lại, thuế TTĐB, thuế xuất khẩu.
- Chiết khấu thanh toán: Là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàngtrước thời hạn quy định.
+ Chiết khấu thương mại: Là khoản tiền khấu trừ cho khách hàng (tiền thưởng) do trong một khoảng thời gian nhất định khachs hàng đã tiến hành mua một khối lượng lớn hàng hóa (tính theo tổng số hàng đã mua trong thời gian đó) hoặc khấu trừ trên giá bán thông thường vì mua khối lượng lớn hàng hóa trong một đợt.
- Giảm giá hàng bán: Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hóa đơn hay hợp đồng cung cấp mà doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng vì lý do như: Hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao không đúng thời gian, địa điểm trong hợp đồng.
- Hàng bán bị trả lại: Là số hàng được coi là tiêu thụ (khách hàng đã trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền) nhưng khách hàng trả lại hàng do không tôn trọng hợp đồng kinh tế đã ký kết.
- Giá vốn hàng bán: Có thể là giá thành công xưởng thực tế của sản phẩm xuất bán hoặc giá trị mua thực tế của hàng hóa tiêu thụ. Tùy thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính giá vốn cho phù hợp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán... Tức là việc lựa chọn phương pháp tính giá không được thay đổi trong một thời kỳ hạch toán.
- Chi phí bán hàng: Bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa... như: Chi phí nhân viên bán hàng, chi phí vật liệu, bảo trì, công cụ, dụng cụ, chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí khấu hao tài sản cố định dùng cho bộ phận bán hàng, chi phí hoa hồng cho đại lý, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền như chi phí bảo hành sản phẩm, chi phí quảng cáo...
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là những khoản chi phí phát sinh có liên quan chung đến toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất kỳ một hoạt động nào. Chi phí quản lý doanh nghiệp bào gồm: chi phí quản lý, chi phí hành chính, chi phí chung khác.
3. Sự cần thiết, nhiệm vụ của kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả trong các DNTM
Để quản lý tốt nhất đối với hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp đó thuộc loại hình kinh tế nào, lĩnh vực hoạt động hay hình thức sở hữu đều phải sử dụng các loại công cụ quản lý khác nhau trong đó kế toán là một công cụ hữu hiệu. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường, kế toán được sử dụng như một công cụ đắc lực không thể thiếu đối với một doanh nghiệp cũng như đối với sự quản lý vĩ mô của nhà nước .
Trong công tác quản lý hoạt động tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả ở doanh nghiệp có vai trò kế toán rất quan trọng. Các thông tin kế toán đưa ra không chỉ phục vụ cho công tác quản lý của bản thân doanh nghiệp mà còn phục vụ cho công tác quản lý của nhiều đối tượng liên quan khác.
Để giữ vững vai trò công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả, kế toán tiêu thụ hàng hoá và xác định kết quả cần thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ thể :
+ Ghi chép phản ánh đầy đủ kịp thời khối lượng hàng hoá bán ra . Quản lý chặt chẽ tình hình biến động và dự trữ kho hàng từ đó phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời hàng hoá ứ đọng
+ Lựa chọn phương pháp xác định xác định giá vốn hàng xuất bán và tính toán đúng giá trị hàng xuất bán, xác định chi phí bán hàng từ đó góp phần tính toán xác định kết quả bán hàng đầy đủ chính xác
+ Kiểm tra phân tích tình hình thực hiện kế hoạch bán hàng từ đó cung cấp thông tin cho lãnh đạo về thực hiện tiến độ tiêu thụ hàng hoá để làm công tác lập kế hoạch tiêu thụ hàng hoá cho kỳ sau
+ Đôn đốc quá trình thanh toán tiền hàng nhanh chóng khi cần, kiểm tra tình hình chấp hành kỷ luật thanh toán và quản lý chặt chẽ tiền bán hàng. Kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước
+ Phản ánh đầy đủ chính xác kịp thời khoản doanh thu theo từng loại hàng hoá kinh doanh, phục vụ cho việc đánh giá phân tích hiệu quả kinh doanh và kiểm tra tình hình thực hiện các chế độ thể lệ tài chính hiện hành
II. NỘI DUNG TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TRONG DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Các phương thức tiêu thụ hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại.
Đặc điểm khác biệt cơ bản của doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất là: doanh nghiệp thương mại không trực tiếp chế tạo ra sản phẩm, hàng hoá mà đóng vai trò trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng. Để tạo điều kiện thuận lợi trong quan hệ mua bán, doanh nghiệp thương mại phải biết áp dụng linh hoạt các phương thức tiêu thụ sau:
1.1. Phương thức tiêu thụ trực tiếp:
Phương thức tiêu thụ trực tiếp là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho (hay trực tiếp tại các phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Số hàng khi bàn giao cho khách hàng được chính thức coi là tiêu thụ và người bán mất quyền sở hưũ về số hàng này. Người mua thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán số hàng mà người bán đã giao.
a. Bán buôn hàng hoá
Bán buôn hàng hoá là bán hàng cho mạng lưới bán lẻ, cho sản xuất tiêu dùng. Thanh toán tiền hàng chủ yếu không dùng tiền mặt mà thông qua ngân hàng và bằng các hình thức thanh toán khác.
* Các hình thức bán buôn hàng hoá:
- Bán buôn qua kho: là trường hợp bán buôn hàng đã nhập kho và đựơc thực hiện theo hai cách.
Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng theo hợp đồng là phương thức mà bên bán chuyển hàng cho bên mua theo địa chỉ ghi trên hợp đồng. Số hàng chuyển đi vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Khi bên mua thanh toán hoặc chấp nhận số hàng chuyển giao (một phần hay toàn bộ) thì số hàng này mới được coi là tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu đối với số hàng đó.
Bán buôn qua kho theo hình thức bên mua lấy hàng trực tiếp tại kho: theo hình thức này, hai bên ký hợp đồng trong đó ghi rõ bên mua đến kho của bên bán nhận hàng. Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký, bên mua sẽ uỷ quyền cho người đến nhận hàng tại kho của doanh nghiệp. Khi bên mua nhận đủ số hàng và ký xác nhận trên chứng từ bán hàng thì số hàng đó không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nữa, hàng được coi là đã tiêu thụ, doanh nghiệp hạch toán vào doanh thu. Việc thanh toán tiền hàng căn cứ trên hợp đồng đã ký. Chứng từ kế toán áp dụng trong trường hợp này là hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho có chữ ký của người nhận hàng.
- Bán buôn không qua kho (giao thẳng hàng không qua kho): Đây là trường hợp tiêu thụ hàng hoá không qua kho của doanh nghiệp. Bán buôn không qua kho có hai hình thức thực hiện.
Bán buôn vận chuyển thẳng, không tham gia thanh toán: thực chất là hình thức môi giới trung gian trong quan hệ mua bán.
Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: trường hợp này doanh nghiệp phải tổ chức quá trình mua hàng, bán hàng, thanh toán tiền hàng mua, tiền hàng đã bán với nhà cung cấp và khách hàng của doanh nghiệp.
b. Bán lẻ hàng hoá
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình vận động hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Hàng bán lẻ thường có khối lượng nhỏ, thanh toán ngay và hình thức thanh toán thường là tiền mặt nên không cần lập chứng từ cho từng lần bán.
Bán lẻ thu tiền trực tiếp là hình thức nhân viên bán hàng chịu trách nhiệm vật chất về số lượng hàng bán tại quầy, trực tiếp thu tiền và giao hàng trực tiếp cho khách hàng, đồng thời ghi chép vào thẻ quầy hàng. Thẻ quầy hàng có thể mở cho từng loại mặt hàng, phản ánh cả về số lượng và giá trị. Cuối ngày nhân viên bán hàng kiểm tiền bán hàng và kiểm kê hàng tồn trên quầy để xác định lượng hàng đã bán trong ngày rồi sau đó lập báo cáo bán hàng. Tiền bán hàng được nhân viên bán hàng kê vào giấy nộp tiền cho thủ quỹ hoặc cho ngân hàng ( nếu được uỷ quyền ). Báo cáo bán hàng là căn cứ để tính doanh thu và đối chiếu với số tiền đã nộp theo giấy nộp tiền
1.2 Phương thức bán hàng đại lý , ký gửi :
Là phương thức mà bên chủ hàng ( gọi là bên giao đại lý) xuất hàng cho bên nhận đại lý ký gửi ( gọi là bên đại lý) để bán. Bên đại lý sẽ được nhận hoa hồng hay chênh lệch giá, đó chính là doanh thu của bên đại lý, ký gửi. Khi bên bán xuất giao hàng hoá cho đại lý thì số hàng hoá đó chưa xác định là tiêu thụ. Chỉ khi nào bên đại lý đã thông báo bán được hàng lúc đó mới xác định là tiêu thụ.
Với hình thức tiêu thụ này đòi hỏi các đại lý ký gửi có thể đảm bảo nhận hàng, giao tiền theo đúng thời gian quy định và bán theo giá mà doanh nghiệp đã định.
1.3. Phương thức tiêu thụ nội bộ:
Tiêu thụ nội bộ là việc mua, bán sản phẩm hàng hoá giữa đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc hay giữa các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một công ty, tổng công ty. Ngoài ra, được coi là tiêu thụ nội bộ còn bao gồm khoán sản phẩm, hàng hoá, xuất biếu tặng, xuất trả lương, thưởng, xuất dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Phương pháp xác định giá vốn của hàng hoá tiêu thụ.
Để xác định giá vốn của hàng hoá tiêu thụ, ta phải đánh giá hàng hoá bằng tiền và giá trị hàng hoá theo nguyên tắc nhất định. Về nguyên tắc, hàng hoá được phản ánh theo trị giá vốn thực tế. Tuy nhiên trong quá trình hạch toán, doanh nghiệp có thể áp dụng 2 cách đánh giá đối với hàng hoá :
* Đánh giá theo giá vốn thực tế
Trị giá hàng hoá phản ánh trong kế toán tổng hợp phải được đánh giá theo nguyên tắc giá vốn thực tế
- Đánh giá hàng hoá nhập kho
Việc đánh giá hàng hoá nhập kho được xác định phù hợp với từng nguồn thu nhập:
+ Hàng hoá do thuê ngoài gia công chế biến nhập kho được đánh giá theo giá trị thực tế thi công gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đem gia công, chi phí thuê ngoài gia công và các chi phí khác liên quan trực tiếp đến quá trình gia công như chi phí vận chuyển, chi phí thủ tục xuất kho cho nguyên vật liệu đem gia công, nhập kho hàng hoá đã hoàn thành gia công.
+ Hàng hoá nhập kho do mua ngoài nhập kho được đánh giá theo tổng chi phí thực tế (nguyên tắc giá phí thực tế để có hàng hoá bao gồm: trị giá mua ( giá bán không có thuế GTGT-đối với doanh nghiệp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế), chi phí vận chuyển bao gói, thuế nhập khẩu...)
- Đánh giá hàng hoá xuất kho
Việc tính toán xác định giá trị thực tế hàng hoá xuất kho có thể áp dụng một trong các phương pháp chủ yếu sau:
+ Phương pháp giá trị thực tế đích danh: Theo phương pháp này giá trị thực tế hàng hoá xuất kho được căn cứ vào đơn giá thực tế hàng hoá nhập kho từng lô, từng lần nhập và số lượng xuất kho theo từng lần.
+ Phương pháp thực tế bình quân: theo phương pháp này giá trị thực tế hàng hoá xuất kho được tính theo đơn giá bình quân và số lượng hàng hoá xuất kho.
Công thức:
Giá trị hàng hoá thực tế xuất kho
=
Số lượng hàng hoá xuất kho
*
Đơn giá bình quân
Trong đó:
Giá bình quân được xác định theo một trong ba phương pháp
Giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ
=
Trị giá thực tế hàng hoá tồn đầu kỳ
+
Trị giá thực tế hàng hoá nhập trong kỳ
Số lượng hàng hoá tồn đầu kỳ