Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức. Triết học được coi là “khoa học của mọi khoa học”, nội dung chính của nó bàn về con người và vị trí của con người trong thế giới mà họ đang sinh sống, có lẽ chính vì vậy mà triết học vừa mang tính tổng quát vừa mang tính cụ thể đối với mọi hoạt động trong xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
15 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Khả năng, hiện thực, lý luận và thực tiễn quản lý doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Môc lôc
Trang
Phần 1: Đặt Vấn đề 2
Phần 2: Lý luận chung về cặp phạm trù khả năng hiện thực 4
I. Các khái niệm 4
1. Phạm trù hiện thực 4
2. Phạm trù khả năng 4
II. Mối quan hệ biện chứng Khả năng – Hiện thực 5
III. Một số kết luận về mặt phương pháp luận 6
Phần 3: Khả năng- Hiện thực và thực tiễn quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam 7
Phần 4: Kết luận 13
Danh mục tài liệu tham khảo 15
Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung của tồn tại và nhận thức. Triết học được coi là “khoa học của mọi khoa học”, nội dung chính của nó bàn về con người và vị trí của con người trong thế giới mà họ đang sinh sống, có lẽ chính vì vậy mà triết học vừa mang tính tổng quát vừa mang tính cụ thể đối với mọi hoạt động trong xã hội cả về lý luận và thực tiễn.
Cùng với sự phát triển của xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử loài người, các ngành khoa học nói chung và triết học nói riêng cũng có những bước phát triển mạnh mẽ và nằm trong tiến trình phát triển đó, triết học Mác - Lênin ra đời như một sự tất yếu ngẫu nhiên. Không chỉ đứng trên lập trường của giai cấp công nhân (giai cấp tiến bộ nhất) để quan sát, phản ánh và lý giải về vấn đề con người và vị trí của con người trong thế giới tự nhiên cũng như mọi hiện tượng, các mối quan hệ giữa con người với con người trong đời sống kinh tế xã hội, triết học Mác – Lênin còn là sự phát triển hợp lôgíc của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Mác –Lênin là sự kế thừa có chọn lọc, là sự kết hợp thế giới quan duy vật và phép biện chứng của các nhà triết học đi trước, đồng thời phát triển nó ở một trình độ cao hơn để rồi nó không chỉ là thế giới quan của giai cấp công nhân, mà như Ăngghen khẳng định, nó còn trở thành sự cần thiết tuyệt đối, trở thành hình thức tư duy quan trọng nhất, cao nhất, thích hợp nhất với sự phát triển của khoa học. Nó đem lại cho khoa học hiện đại những chức năng có ý nghĩa phương pháp luận trong việc xem xét, luận giải bản thân sự phát triển của mình.
Trong kho tàng tri thức đồ sộ của mình, xuất phát từ những vấn đề tưởng chừng là rất đơn giản như những nguyên lý, quy luật và các cặp phạm trù cơ bản … Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ ra con đường phát triển xã hội của nhân loại từ thấp đến cao thông qua cả lý luận và thực tiễn. Các tư tưởng đó đã được rất nhiều quốc gia trên thế giới vận dụng một cách sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của quốc gia mình.
Đối với Việt Nam chúng ta, một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh chính nghĩa để bảo vệ tổ quốc, Đảng ta luôn khẳng định lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng làm kim chỉ nam cho mọi hành động của mình. Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo triết học Mác - Lênin, Chủ nghĩa Mác – Lênin nên đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Mặc dù không đi vào các vấn đề mang tính cụ thể mà chỉ đưa ra những quan điểm, chủ trương, giải pháp một cách chung nhất về con người và các vấn đề có liên quan đến con người trên phạm vi toàn thế giới, nhưng trong lĩnh vực sản xuất nói chung triết học Mác – Lênin cũng đã chỉ ra rất nhiều vấn đề có liên quan đến công tác sản xuất và quản lý sản xuất của các doang nghiệp như: mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; các mối liên hệ phổ biến (ta cụ thể hóa trong các hoạt động sản xuất kinh doanh); chỉ ra mâu thuẫn nội tại; quy trình của sự phát triển … mà trên cơ sở đó từng doanh nghiệp có thể vận dụng một cách linh hoạt trong điều kiện cụ thể của doanh nghiệp mình.
Nhận thức được vai trò cực kỳ quan trọng của triết học Mác – Lênin đối với đời sống xã hội nói chung và hoạt động cụ thể của mỗi doanh nghiệp nói riêng nên tác giả đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu về triết học Mác – Lênin và sự vận dụng vào thực tiễn trong công tác quản lý doanh nghiệp hiện nay. Cùng với sự hiểu biết của bản thân, sự giảng dạy và hướng dẫn tận tâm của thầy giáo PGS-TS. Lê Thanh Sinh, tác giả hy vọng sẽ làm rõ được những vấn đề mà hiện nay các doanh nghiệp có thể vận dụng từ lý luận của triết học Mác – Lênin nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường tính cạnh tranh trong nước và quốc tế ... Tuy nhiên do khối lượng kiến thức của triết học Mác – Lênin quá đồ sộ, pham vi nghiên cứu quá rộng trong khi điều kiện về thời gian, trình độ có hạn nên tác giả đã giới hạn đề tài nghiên cứu của mình là: “Khả năng – Hiện thực, lý luận và thực tiễn quản lý doanh nghiệp” với hy vọng sẽ có được sự hiểu biết vững chắc hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn lý luận của triết học Mác – Lênin về cặp phạm trù Khả năng – Hiện thực và khả năng vận dụng vào thực tiễn quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Để hoàn thiện được đề tài nghiên cứu của mình, tác giả xin được gửi lời cảm ơn trân trọng tới thầy giáo PGS-TS. Lê Thanh Sinh đã nhiệt tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ cùng với sự góp ý nhiệt tình của các bạn trong lớp Cao học Khóa 17 - Đêm 5.
Phần 2:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CẶP PHẠM TRÙ KHẢ NĂNG – HIỆN THỰC
I. Các khái niệm:
Hai phạm trù “Khả năng”, “Hiện thực” giữ một vị trí quan trọng trong phát triển biện chứng, chúng biểu thị xu hướng chung của hệ thống. Khả năng là tổng thể các tiền đề cần thiết và đầy đủ thiết định sự xuất hiện hợp quy luật của hiện tượng này hay hiện tượng khác. Hiện thực là những cái đã có, đã ra đời, đã tồn tại.
1. Phạm trù Hiện thực:
Hiện thực là phạm trù chỉ cái đã ra đời, đã xuất hiện, đã được thực hiện; đó là những sự vật và hiện tượng đang tồn tại một cách khách quan trong thực tế và cả những gì đang tồn tại một cách chủ quan trong ý thức con người.
Hiện thực bao gồm cả hiện thực vật chất (hiện thực khách quan) và hiện thực tinh thần (hiện thực chủ quan), nghĩa là cả vật chất lẫn tinh thần đều tồn tại.
2. Phạm trù Khả năng:
Khả năng là phạm trù dùng để chỉ cái còn là mầm mống trong sự vật và quá trình. Đó là cái chỉ mới là tiền đề của khuynh hướng phát triển và có thể ra đời khi có điều kiện thích hợp. Khả năng mà ta nghiên cứu là khả năng thực tế, không phải là khả năng ảo. Nó khác với: điều kiện, tiền đề, ngẫu nhiên, xác suất …
Người ta phân các khả năng thành khả năng tất nhiên và khả năng ngẫu nhiên. Bản thân các khả năng tất nhiên lại có thể phân ra thành khả năng gần (hiện đã có gần đủ các điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực) và khả năng xa (còn phải trải qua nhiều giai đoạn tư duy). Khả năng là cái hiện đang ở trong dạng tiềm năng, nhưng sẽ biến thành hiện thực khi cần thiết và khi có các điều kiện thích hợp; còn hiện thực là cái đang biểu hiện và đang tồn tại thực sự. Khả năng là cái tồn tại khách quan, có gốc rễ ngay trong hiện thực.
Ngoài ra còn nhiều cách phân loại khả năng khác như: khả năng tốt và khả năng xấu; khả năng song song tồn tại và khả năng loại trừ nhau; khả năng chủ yếu và khả năng thứ yếu … Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem khả năng như là tiền đề của cái mới; là xu hướng phát triển của sự vật, quá trình. Khả năng được biểu hiện trong bản thân hiện thực khách quan. Trong những điều kiện thích hợp, nó sẽ trở thành hiện thực. Hiện thực được xem như là khả năng được thực hiện. Hiện thực khách quan luôn luôn có nhiều vẻ, nhiều mặt, nhiều đặc tính, thuộc tính, cho nên trong hiện thực có chứa đựng nhiều khả năng khác nhau. Mỗi khả năng lại là nhân tố biểu hiện xu hướng của sự phát triển.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực
1. Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hoá lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Quá trình phát triển diễn ra như sau: khả năng trở thành hiện thực, còn hiện thực đó dưới tác động của những nguyên nhân khác nhau lại sản sinh ra những khả năng mới. Những khả năng này trong những điều kiện thích hợp được thực hiện trở thành hiện thực. Khả năng biến thành hiện thực và hiện thực mới lại bao hàm khả năng mới của sự phát triển. Đó là quá trình phát triển liên tục của thế giới vật chất. Nói một cách khác: Khả năng và Hiện thực là hai mặt đối lập thống nhất biện chứng trong quá trình phát triển của sự vật.
2. Trong cùng những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại một số khả năng, chứ không phải chỉ có một khả năng. Bởi vì, sự vật trong cùng một lúc chứa đựng nhiều tiềm năng, nhiều mâu thuẫn khác nhau. Hơn nữa, ngay bản thân mỗi khả năng cũng phát triển và không phải là không thay đổi. Nó tăng thêm hoặc giảm đi tuỳ theo trình độ phát triển của mỗi người, theo sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể. Vì vậy, trong số các khả năng, khả năng nào có đầy đủ các điều kiện cần thiết thì sẽ biến thành hiện thực. Để một khả năng nào đó biến thành hiện thực, thường cần có không chỉ một điều kiện mà là một tập hợp các điều kiện cần và đủ.
3. Sự chuyển hóa Khả năng – Hiện thực:
Khả năng biến thành hiện thực là một quá trình mâu thuẫn phức tạp. Không phải bao giờ khả năng cũng dễ dàng biến thành hiện thực. Sự chuyển hoá đó phải có những điều kiện nhất định. Nếu có đủ điều kiện thì khả năng sẽ biến thành hiện thực, không đủ điều kiện thì khả năng sẽ không biến thành hiện thực. Khi nắm được khả năng, con người có thể can thiệp vào tiến trình khách quan của các sự kiện và tạo ra những điều kiện thích hợp để thúc đẩy hoặc ngăn ngừa khả năng đó biến thành hiện thực.
Điều kiện để khả năng biến thành hiện thực trong xã hội: Bên cạnh điều kiện khách quan, nhất thiết phải có nhân tố chủ quan là thực tiễn của con người. Hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến đổi đó, có thể điều khiển cho khả năng phát triển theo hướng này hay hướng khác bằng cách tạo ra các điều kiện thích ứng.
Sự chuyển biến khả năng thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không giống trong xã hội. Trong tự nhiên, ngoài việc con người tác động vào tự nhiên để biến các khả năng thành hiện thực thì cũng có nhiều khả năng trở thành hiện thực một cách tự phát không cần có sự tham gia của con người, mà nó hoàn toàn tuân theo các quy luật của tự nhiên.
III. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
1. Trong thực tiễn, cần dựa vào hiện thực, chứ không được dựa vào khả năng (để tránh rơi vào ảo tưởng) trong việc định ra chủ trương, phương hướng hành động của mình.
2. Tuy không dựa vào khả năng, nhưng cần tính đến các khả năng (khả năng gần, xa, tất nhiên, ngẫu nhiên…) để có các phương án dự phòng thích hợp.
3. Trong lĩnh vực xã hội, cần đặc biệt chú ý phát huy nguồn lực con người (nhân tố chủ quan). Không thấy nhân tố chủ quan (tức hoạt động của con người), sẽ phạm sai lầm “hữu khuynh”. Nếu thổi phồng nhân tố chủ quan, bất chấp điều kiện khách quan sẽ mắc sai lầm “tả khuynh”.
Phần 3:
KHẢ NĂNG – HIỆN THỰC VÀ
THỰC TIỄN QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Kể từ Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới sâu rộng trong cả nước, và cho đến nay sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đó thì nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến dài khiến cho bạn bè quốc tế phải khâm phục. Một trong những nội dung đổi mới đó là tạo môi trường thuận lợi để cho các doanh nghiệp được quyền tự chủ và có khả năng phát triển đi lên vì các doanh nghiệp ngày càng có một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế nước nhà trong nỗ lực của Đảng và Chính phủ sớm đưa nước ta ra khỏi các nước nghèo trên thế giới.
Với cụ thể mỗi doanh nghiệp, mục tiêu của họ luôn là: Làm sao bán được nhiều hàng do họ sản xuất ra, tăng nhanh doanh thu, tăng lợi nhuận, nâng cao mức sống cho người lao động để họ có thể yên tâm phục vụ công ty, nộp đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, nâng cao năng lực cạnh tranh … Để thực hiện các mục tiêu đó mỗi doanh nghiệp đều có những biện pháp thực hiện khác nhau, có những con đường khác nhau để phát triển. Và trên con đường họ chọn để đi đó thì họ cũng phải vận dụng tổng hợp nhiều khoa học khác nhau, nhiều lý luận khác nhau về phương thức quản lý doanh nghiệp; Ở trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta chỉ xét đến các doanh nghiệp họ đã, sẽ và nên vận dụng phạm trù Khả năng – Hiện thực như thế nào trong phương pháp quản lý doanh nghiệp để đạt được những mục tiêu mà họ đã đưa ra.
Trước hết ta bàn về hiện thực, bất kỳ một công ty hay một xí nghiệp nào muốn phát triển một cách bền vững đều phải dựa trên thực tế hiện có của doanh nghiệp mình trong điều kiện hiện có của môi trường kinh doanh bao quanh, chứ không thể dựa vào khả năng trong tương lai xa vời (mà có thể xảy ra hoặc không xảy ra) để đặt ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh, đề ra những mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài cho doanh nghiệp mình như Lênin đã chỉ ra: “Phải căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng”. Chẳng hạn một công ty vốn liếng chỉ có vài chục triệu đồng thì không thể đặt ra một kế hoạch sản xuất phiêu lưu như quyết định đầu tư vào thị trường bất động sản nhằm thu lợi nhuận khổng lồ hay tham vọng đầu tư vào những thị trường rộng lớn nhưng cũng đầy sức cạnh tranh như Mỹ, EU … trong một tương lai gần. Hiện thực của mỗi doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng với chính doanh nghiệp đó trong việc tồn tại hay không tồn tại, phát triển hay không phát triển, vì vậy yêu cầu đặt ra là những người chủ doanh nghiệp phải thực sự nhận ra doanh nghiệp mình đang ở đâu? Khả năng ra sao? Vị trí, vai trò của doanh nghiệp mình trong xã hội như thế nào? Tình hình các đối thủ cạnh tranh của ta ra sao? Nhu cầu thị trường hiện tại và trong tương lai gần cần gì? … tránh những tư tưởng màu hồng, lúc nào cũng đánh giá cao doanh nghiệp mình hay ngược lại là một tư tưởng tự ti, lúc nào cũng sợ doanh nghiệp mình còn yếu và thiếu nên không dám cạnh tranh một cách sòng phẳng trên thị trường; Có như vậy doanh nghiệp đó mới có thể đề ra một kế hoạch, một mục tiêu mang tính khả thi cao, nó là môt trong những nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp trên thương trường như Tôn Tử đã từng nói: “Biết địch, biết ta trăm trận trăm thắng”.
Với một hiện thực như vậy: số lượng công nhân hiện có; tình hình trang thiết bị với số lượng và chất lượng nhất định; tình hình thị trường đang diễn biến thực tế, … nhưng họ sẽ đối mặt với nhiều khả năng có thể xẩy ra: tình hình không thuận lợi: giá cả đầu vào tăng cao, thị trường cạnh tranh quyết liệt bán không được hàng … dẫn đến lỗ, nợ nần ngập đầu rồi phá sản hay các điều kiện thuận lợi hơn: giá cả đầu vào giảm, năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm tốt tạo được uy tín với khách hành, sản phẩm đầu ra tiêu thụ nhanh … dẫn đến lãi lớn từ đó họ có điều kiện quan tâm chăm sóc tới đời sống của mỗi công nhân khiến họ thêm an tâm làm việc và như vậy chu kỳ thành công sẽ kéo dài … Bất kỳ người chủ doanh nghiệp nào cũng mong muốn những gì thuận lợi hay những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với mình, vì vậy nhiệm vụ của họ là phải tìm ra lời giải thích hợp cho bài toán mà đáp số (mục tiêu của doanh nghiệp) và các giả thiết (các yếu tố thực tế của doanh nghiệp và môi trường kinh doanh xung quanh) đã có sẵn để biến những khả năng tốt đẹp trở thành hiện thực trong tương lai gần và những hiện thực trong tương lai đó sẽ lại là điều kiện, là tiền đề để tiếp tục có những khả năng mới và những hiện thực mới tốt đẹp hơn.
Một trong những giải pháp của các doanh nghiệp là quản lý tốt các yếu tố đầu vào và các yếu tố đầu ra của doanh nghiệp mình. Quản lý tốt các yếu tố đầu vào để hạ thấp giá thành, đảm bảo chất lượng sản phẩm, đây là một yếu tố quan trọng để bảo đảm lợi nhuận và tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Quản lý tốt các yếu tố đầu ra để giảm thiểu được các chi phí bán hàng, bảo đảm nhanh thu được tiền về để tái đầu tư phục vụ hoạt động sản xuất … Và dù ở yếu tố nào, quy trình nào hay nội dung nào của một quá trình sản xuất trong doanh nghiệp của họ thì hai yếu tố quan trọng bậc nhất vẫn là yếu tố con người (yếu tố quyết định) và công cụ sản xuất (yếu tố quan trọng).
Về yếu tố con người, trước hết bàn về vai trò của người lãnh đạo doanh nghiệp. Trước đây kinh tế chính trị Mác – Lênin cho rằng lợi nhuận (giá trị thặng dư) của mỗi doanh nghiệp là do sức lao động của những người công nhân trực tiếp sản xuất tạo ra, nhưng theo quan điểm riêng của tác giả thì điều này giờ đây không còn đúng hoàn toàn nữa. Trong các doanh nghiệp vai trò của người lãnh đạo đang ngày một trở nên quan trọng hơn, ông cha ta đã từng nói: “một người lo bằng một kho người làm”. Việc đánh giá đúng hoặc không đúng tình hình thực tế của doanh nghiệp mình và môi trường xung quanh cũng như việc dự báo chính xác hay không chính xác tình hình xã hội trong tương lai sẽ khiến cho người lãnh đạo doanh nghiệp có những quyết định hoặc đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế, điều đó sẽ khiến doanh nghiệp của họ tạo ra những môi trường thuận lợi giúp cho các khả năng tốt có điều kiện phát triển để trở thành hiện thực và khi đó doanh nghiệp của họ có điều kiện phát triển đi lên (khi đó lợi nhuận thu được đôi khi bắt nguồn từ những lợi thế trong kinh doanh do các quyết định đúng đắn đó tạo nên) hoặc ngược lại, các quyết định của họ sẽ đi ngược các quy luật của sự phát triển khiến cho doanh nghiệp của họ sẽ lụn bại và dần dẫn đến phá sản do các khả năng xấu có môi trường thuận lợi để phát triển. Điều này giải thích tại sao khi cùng ở điều kiện xuất phát như nhau trong cùng một môi trường kinh doanh mà có những doanh nghiệp tồn tại và phát triển tốt trong khi cũng có những doanh nghiệp đi tới phá sản hay tại sao các ông chủ lớn chấp nhận thuê những người có tài với mức lương cực cao để đảm nhiệm những vị trí cực kỳ quan trọng trong doanh nghiệp của mình.
Một người quản lý doanh nghiệp giỏi không phải ngẫu nhiên mà có, không phải khi sinh ra họ đã là nhà quản lý tốt. Để trở thành người quản lý doanh nghiệp giỏi trước tiên các nhà quản lý phải trang bị cho mình những kiến thức nhất định về kinh tế và quản lý kinh tế từ đó họ sẽ có những phân tích đúng đắn, hợp quy luật về doanh nghiệp của họ, diễn biến thị trường hôm nay và trong tương lai, mặt khác họ phải bám sát thực tiễn để có cái nhìn chính xác hơn trong việc quản lý doanh nghiệp và có sự phân tích chuẩn xác hơn về tình hình thị trường và các đối thủ cạnh tranh, từ đó họ mới có điều kiện để đưa ra các quyết sách đúng đắn được.
Thứ hai, chúng ta bàn về vai trò của những người còn lại trong các doanh nghiệp, họ là những người công nhân, những người làm công tác quản lý, những người làm công tác chuyên môn khác, những chuyên gia ... Con người có mặt trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất, từ mua sắm nguyên vật liệu, sản xuất rồi tiêu thụ … Ở bất cứ khâu nào thì vai trò của họ đều mang tính chất quyết định. Cũng như tất cả các yếu tố trong xã hội, trong mỗi con người đều tồn tại những hiện thực nhất định và chứa đựng những khả năng to lớn, khả năng đó có thể góp phần quan trọng (nếu không nói là quyết định) tới sự phát triển nhưng cũng những khả năng đó có thể phá hủy sự phát triển của cả một doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là những người chủ các doanh nghiệp phải làm gì, phải tạo những điều kiện gì để những khả năng tích cực tiềm ẩn trong mỗi con người có điều kiện trở thành hiện thực. Điều này cũng giải thích tại sao các doanh nghiệp hiện nay (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) rất quan tâm đến vấn đề quản trị nhân sự cả trong công tác tuyển dụng cũng như việc sắp xếp công việc, vị trí công tác, trả lương cho người lao động …. Vì có như thế, họ (những người chủ doanh nghiệp) mới có điều kiện hiểu rõ khả năng, hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng của mỗi người lao động từ đó họ sẽ có kế hoạch tận dụng và phát huy một cách tốt nhất vai trò của người lao động trong doanh nghiệp của và họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Cùng bàn về vai trò đặc biệt quan trọng của con người trong các doanh nghiệp, tác giả Lê Thanh Sinh trong tác phẩm: “Phép biện chứng duy vật với quản lý doanh nghiệp” đã đưa ra bốn điều kiện cần thiết để biến để có thể biến những khả năng có ích của mỗi người lao động thành hiện thực, đóng góp một cách có hiệu quả cho các doanh nghiệp, đó là: Một: Phải trả lương hợp lý, tiền lương phải xứng đáng với sức lao động và sự cống hiến của mỗi công nhân vì h