Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển của hợp tác kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng được mở rộng và phát triển và nó có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng. Do vậy mà hoạt động kinh doanh quốc tế ngày nay có vai trò hết sức quan trọng, nó đưa nền kinh tế Việt nam phát triển nhanh nhất đồng thời nó cũng là hoạt động khó khăn phức tạp nhất, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nhất. Hiện nay nhiều mặt hàng Việt nam đã xuất hiện trên thị trường quốc tế và đã khẳng định được vị trí của mình. Là một trong những đầu tàu kéo nền kinh tế Việt nam phát triển, ngành dệt may Việt nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong kinh doanh quốc tế nói chung và trong việc thâm nhập thị trường quốc tế nói riêng. Trong quá trình thâm nhập thị trường quốc tế các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam đã có được những kinh nghiệm cả trong những thất bại và thành công. Một trong những thị trường mở màn cho tiến trình thâm nhập thị trường quốc tế của ngành dệt may Việt nam đó là thị trường truyền thống EU. Là một thị trường dệt may hạn ngạch lớn nhất của Việt nam, EU đã đánh một dấu mốc quan trọng đối với ngành dệt may Việt nam khi vươn ra thị trường nước ngoài. Việc thâm nhập thị trường nói chung và thâm nhập thị trường EU nói riêng có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt nam. Trong những năm đầu, khi mà quan hệ thương mại Việt nam –EU mở ra, thì thị trường EU là một thị trường đã đưa đến sự thành công nhất cho ngành dệt may Việt nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang thị trường EU liên tuc tăng trong giai đoạn từ năm 1993 cho đến năm 2001. Tuy nhiên trong hai năm gần đây thị trường EU dường như không được chú trọng đúng mực do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến các doanh nghiệp dệt may Việt nam đang mất dần thị phần trên thị trường này. Để tìm ra giải pháp tháo gỡ cho vấn đề này nhằm tiếp tục đẩy mạnh thâm nhập và khai thác thị trường này cho ngành dệt may Việt nam trong giai đoạn mới khi ma EU chuẩn bị cho việc tiến tới xoá bỏ hạn, em đã đi vào nghiên cứu đề tài “Khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU- thực trạng và giải pháp”. Đề tài được em nghiên cứu theo hướng dựa trên những kiến thức chuyên môn về quản trị kinh doanh quốc tế trong đó tập trung vào những lý luận về thị trường và thâm nhập thị trường quốc tế để nêu và phân tích khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU và từ đó em đưa ra một số giải pháp thâm nhập thị trường EU cho ngành dệt may Việt nam. Do vậy, kết cấu của chuyên đề này được chia làm ba nội dung sau:
Chương I. Cơ sở lý luận về thâm nhập thị trường.
Chương II. Thực trạng và khả năng thâm nhập của mặt hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian vừa qua.
Chương III. Triển vọng và một số giải pháp nhằm tăng cường thâm nhập hàng dệt may của Việt nam sang thị trường EU.
83 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU- thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
LƠI NÓI ĐẦU 6
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG .8
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG 8
1. Khái niệm thị trường và các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 8
2. Nội dung của thâm nhập thị trường 19
3. Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao khả năng thâm nhập thị trường quốc tế .20
II. MỘT SỐ CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ. 21
1. Chỉ tiêu về thị phần. 21
2. Chi tiêu về uy tín thương hiệu 22
3. chỉ tiêu về tỷ trọng các phương thức thâm nhập. 22
III. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KHẢ NĂNG THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG 23
1. Môi trường kinh tế 23
2. Môi trường chính trị – luật pháp. 24
3. Môi trường văn hoá và con người. 25
4. Môi trường cạnh tranh. 27
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KHẢ NĂNG THÂM NHẬP CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN VỪA QUA. 30
I. QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG EU CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM .30
1. Giai đoạn trước năm 1993. 30
2. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay .30
II. THỰC TRẠNG KHẢ NĂNG THÂM NHẬP CỦA MẶT HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU .32
1. Các hình thức thâm nhập từ trước đến nay. 32
2. Các kênh phân phối và tiêu thụ. 36
3. Thực trạng của hoạt động thâm nhập. 38
4. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thâm nhập thị trường EU của hàng dệt may Việt nam. 40
III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG .43
1. Những kết quả đã đạt được. 43
2. Những điểm còn hạn chế. 43
3. Những nguyên nhân của những hạn chế trên .48
CHƯƠNG III. TRIỂN VỌNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG EU .50
I. TRIỂN VỌNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG THÂM NHẬP .50
1. Triển vọng thâm nhập .50
2. Phương hướng thâm nhập .54
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THÂM NHẬP HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU .55
1.Giải pháp từ phía Nhà nước 55
2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 61
KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
DANH MUC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng:
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU trong các năm từ năm 1996-2001 31
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường EU trong giai đoạn 2001-2003 32
Bảng 3: Tỷ trọng của các kênh tiêu thụ thông qua hệ thống bán lẻ .37
Bảng 4: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu hàng dệt may trong liên minh EU ..41
Bảng 5: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam. 42
Biểu đồ
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu h àng dệt may Việt nam sang thị trường EU trong giai đoạn từ 1996-2001 .31
Biểu đồ 2: Kim ngạch xuất khẩu h àng dệt may Việt nam sang thị trường EU trong giai đoạn từ 2001-2003 .32
Sơ đồ
Sơ đồ 1: Mô hình sức mạnh của Michael Porter 27
Sơ đồ 2: Sơ đồ gia công xuất khẩu hàng dệt may Việt nam. 34
LỜI CAM ĐOAN
Trong việc hoàn thiện bản chuyên đề thực tập này em đã cố gắng sưu tầm tài liệu nghiên cứu để có được những số liệu tương đối chuẩn xác. Bài viết này em đã tự hoàn thiện dưới sự hướng dẫn giúp đỡ của thầy giáo Tiến Sỹ: Tạ Văn Lợi. Những số liệu của bài nghiên cứu này được lọc từ những tài liệu tham khảo như em đã trình bày trong phần mục lục. Em xin cam đoan những lời nói trên là sự thật. Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên: Ngô Văn Dân
BẢNG ĐIỂM
sstt
Chương
Điểm
1
Chương I
2
Chương II
3
Chương III
4
Toàn bài
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển của hợp tác kinh tế quốc tế, hoạt động kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng được mở rộng và phát triển và nó có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng. Do vậy mà hoạt động kinh doanh quốc tế ngày nay có vai trò hết sức quan trọng, nó đưa nền kinh tế Việt nam phát triển nhanh nhất đồng thời nó cũng là hoạt động khó khăn phức tạp nhất, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nhất. Hiện nay nhiều mặt hàng Việt nam đã xuất hiện trên thị trường quốc tế và đã khẳng định được vị trí của mình. Là một trong những đầu tàu kéo nền kinh tế Việt nam phát triển, ngành dệt may Việt nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong kinh doanh quốc tế nói chung và trong việc thâm nhập thị trường quốc tế nói riêng. Trong quá trình thâm nhập thị trường quốc tế các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may Việt nam đã có được những kinh nghiệm cả trong những thất bại và thành công. Một trong những thị trường mở màn cho tiến trình thâm nhập thị trường quốc tế của ngành dệt may Việt nam đó là thị trường truyền thống EU. Là một thị trường dệt may hạn ngạch lớn nhất của Việt nam, EU đã đánh một dấu mốc quan trọng đối với ngành dệt may Việt nam khi vươn ra thị trường nước ngoài. Việc thâm nhập thị trường nói chung và thâm nhập thị trường EU nói riêng có vai trò rất quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt nam. Trong những năm đầu, khi mà quan hệ thương mại Việt nam –EU mở ra, thì thị trường EU là một thị trường đã đưa đến sự thành công nhất cho ngành dệt may Việt nam, kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang thị trường EU liên tuc tăng trong giai đoạn từ năm 1993 cho đến năm 2001. Tuy nhiên trong hai năm gần đây thị trường EU dường như không được chú trọng đúng mực do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến các doanh nghiệp dệt may Việt nam đang mất dần thị phần trên thị trường này. Để tìm ra giải pháp tháo gỡ cho vấn đề này nhằm tiếp tục đẩy mạnh thâm nhập và khai thác thị trường này cho ngành dệt may Việt nam trong giai đoạn mới khi ma EU chuẩn bị cho việc tiến tới xoá bỏ hạn, em đã đi vào nghiên cứu đề tài “Khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam vào thị trường EU- thực trạng và giải pháp”. Đề tài được em nghiên cứu theo hướng dựa trên những kiến thức chuyên môn về quản trị kinh doanh quốc tế trong đó tập trung vào những lý luận về thị trường và thâm nhập thị trường quốc tế để nêu và phân tích khả năng thâm nhập hàng dệt may Việt nam sang thị trường EU và từ đó em đưa ra một số giải pháp thâm nhập thị trường EU cho ngành dệt may Việt nam. Do vậy, kết cấu của chuyên đề này được chia làm ba nội dung sau:
Chương I. Cơ sở lý luận về thâm nhập thị trường.
Chương II. Thực trạng và khả năng thâm nhập của mặt hàng dệt may Việt Nam vào thị trường EU trong thời gian vừa qua.
Chương III. Triển vọng và một số giải pháp nhằm tăng cường thâm nhập hàng dệt may của Việt nam sang thị trường EU.
Trong quá trình hoàn thành chuyên đề này em đã được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến Sỹ: Tạ Văn Lợi và sự giúp đỡ của các anh chị chú bác làm việc tại Viện Kinh Tế Thế Giới. Tuy nhiên đây là đề tài rộng lớn mà với khả năng bản thân em còn nhiều hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có được những nhận xét để bản nghiên cứu này được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến Sỹ: Tạ Văn Lợi và các anh chị chú bác công tác tại Viện Kinh Tế Thế Giới.
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG.
1. Khái niệm thị trường và các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế.
1.1. Khái niệm về thị trường.
Trong thời kỳ đất nước mở cửa và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá đang tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tự do kinh doanh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế. Tuy nhiên để tồn tại và phát triển là một vấn đề rất khó khăn vì các doanh nghiệp Việt nam còn rất bỡ ngỡ trong điều kiện kinh doanh mới với mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường thường xuyên biến động. Vì vậy, mỗi nhà kinh doanh, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phảt triển tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế đòi hỏi phải nắm bắt được, hiểu biết được những vấn đề lý luận về thị trường và thâm nhập thị trường.
Thị trường là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn bó chặt chẽ với khái niệm phân công lao động xã hội. Ở đâu có phân công lao động xã hội và sản xuất hàng hoá thì ở đó có thị trường. Cùng với sự phát triển của thị trường đã có rất nhiều quan điểm, cách nhìn nhận, hiểu biết khác nhau về thị trường. Với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá thì khái niệm thị trường ngày càng đa dạng và hoàn thiện hơn.
Theo cách hiểu cổ điển “Thị trường được xem là nơi diễn ra các quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá, nó được gắn với không gian, thời gian, địa điểm cụ thể”. Như vậy thị trường ở đây được hình dung như là một địa điểm cụ thể như một cái chợ, một cửa hàng hay một nơi diễn ra hoạt động trao đổi mua bán cụ thể nào đó.
Ngày nay khi mà phân công lao động xã hội diễn ra mạnh mẽ sản xuất và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển, các quan hệ mua bán và trao đổi hàng hoá ngày càng phong phú và phức tạp thì khái niệm thị trường cũng được các nhà kinh tế học nhìn nhận một cách khác “Thị trường là một quá trình mà người mua, người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá mua bán”.
Ngoài ra có rất nhiều khái niệm khác nhau về thị trường. Sau đây là một số quan điểm:
Theo từ điển kinh tế Việt nam: “Thị trường là nơi lưu thông tiền tệ, là toàn bộ các giao dịch mua bán hàng hoá”
Theo hiệp hội quản trị Hoa Kỳ: “Thị trường là tổng hợp các lực lượng và các điều kiện trong đó người mua và người bán thực hiện các quyết định chuyển hàng hàng hoá dịch vụ từ người bán sang người mua”.
Những khái niệm trên dùng để diễn tả cho thị trường chung, nó được xem xét dưới góc độ của các nhà phân tích kinh tế theo góc độ quản lý vĩ mô của nền kinh tế.
Theo quan điểm marketing, dưới góc độ quản trị doanh nghiệp, xuất phát từ yêu cầu xác định thị trường để có những đối pháp cần thiết trong kinh doanh thì khái niệm thị trường được phát biểu như sau: “Thị trường là tổng hợp các khách hàng hiện tại và tiềm năng cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó”. Tóm lại, dù xét dưới góc độ nào thì thị trường cũng phải được thể hiện qua ba yếu tố sau: Thị trường phải có khách hàng, khách hàng phải có nhu cầu chưa được thoả mãn và khách hàng phải có khả năng thanh toán cho việc mua hàng.
1.2. Các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế.
1.2.1. Xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động đưa hàng hoá ra thị trường nước ngoài nhằm thực hiện giá trị hàng hoá để đáp ứng nhu cầu ở thị trường nước ngoài.
Hoạt động xuất khẩu là một mặt quan trọng trong hoạt động thương mại quốc tế đó là quá trình bán hàng hoá dịch vụ cho người khác. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là thu được một khoản ngoại tệ dựa trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện kinh tế từ sản xuất hàng hoá tiêu dùng cho tới tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế trong từng giai đoạn. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên một phạm vi rộng cả về điều kiện không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian ngắn, song nó cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể tiến hành trên một hay nhiều quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là một mặt của hoạt động thương mại quốc tế nên nó cũng có những đặc trưng của thương mại quốc tế như: hoạt động xuất khẩu không giống như buôn bán trong nước mà là hoạt động buôn bán với các đối tác nước ngoài, nó liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế khác như bảo hiểm quốc tế, vận tải quốc tế, thanh toán quốc tế. Các nghiệp vụ này khá phức tạp và đa dạng, rủi ro cũng cao hơn. Hoạt động xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Nó không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy mạnh sản xuất trong nước nhờ tích luỹ từ khoản thu ngoại tệ và xuất khẩu, phát huy tính năng sáng tạo của các đơn vị thông qua cạnh tranh quốc tế. Kinh doanh xuất nhập khẩu còn là phương tiện để khai thác các lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, nhân lực và các nguồn lực khác. Ngoải ra hoạt động xuất khẩu còn thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các nước và đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu. Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Điển hình là một số hình thức sau:
1.2.1.1. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra (hoặc xuất khậu hàng hoá dịch vụ thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước hoặc từ khách hàng nước ngoài) thông qua tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp yêu cầu phải có nguồn vốn đủ lớn và đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ để có thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh nhưng nó lại có những ưu điểm nổi bật sau:
- Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu cũng như tình hình của khách hàng nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết.
1.2.1.2. Xuất khẩu uỷ thác.
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất qua đó thu được một số tiền nhất định (theo tỷ lệ % giá trị lô hàng ).
Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp , đặc biệt là cho phép kinh doanh với vốn ít, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
Phương thức xuất khẩu uỷ thác có nhược điểm phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nắm bắt thông tin về thị trường chậm. Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình.
1.2.1.3. Buôn bán đối lưu.
Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, một trong những phương thức thâm nhập thị trường quốc tế. Trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi có giá trị tương xứng với lượng hàng nhận về. Ở đây mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, mà nhằm đưa hàng hoá của mình ra thị trường nước ngoài tiêu thu đồng thời nhập khẩu hàng hoá khác với giá trị tương đương vào tiêu dùng trong nước. Các hình thức mua bán đối lưu rất đa dạng tuy nhiên để thâm nhập thị trường quốc tế các công ty thường hay sử dụng các phương thức mua bán đối lưu sau đây:
+ Mua bán đối lưu thông thường. Đây là phương thức hai bên trao đổi trực tiếp với nhau những hàng hoá và dịch vụ có giá trị tương đương và các điều kiện mua bán tương đương.
+ Mua bán bồi hoàn. Đây là hình thức buôn bán đối lưu mà một bên cam kết sẽ mua lại cho bên kia những hàng hoá có giá trị tương đương trong tương lai.
+ Mua đối lưu. Đây là hình thức mà theo đó bên cam kết sẽ mua lại những hàng hoá xác định có giá trị tương đương của nhà nhập khẩu trước đó.
+ Chuyển nợ. Đây là hình thức mua bán đối lưu mà một bên cam kết mua lại hàng hoá của bên kia chuyển trách nhiệm mua lại đó cho bên thứ ba từ chính thị trường xuất khẩu của mình.
+ Mua lại. Là hình thức mua bán đối lưu gắn liền với việc mua bán chuyển giao máy móc thiết bị và cam kết nhận lại những sản phẩm được sản xuất từ chình thiết bị đó.
Buôn bán đối giúp nhà kinh doanh tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn đảm bảo việc thanh toán khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên, buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. Việc thâm nhập thị trường sẽ không sâu.
1.2.1.4. Giao dịch qua trung gian.
Đây là giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này là đại lý môi giới hay là người trung gian.
Đại lý là một tổ chức hoặc một cá nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác, quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng đại lý. Có rất nhiều đại lý khác nhau như đại lý hoa hồng, đại lý toàn quyền, tổng đại lý... Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác.
Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế .Tuy nhiên, phương thức giao dịch này cũng phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nó làm cho lợi nhuận giảm xuống.
1.2.1.5. Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công.
Đây là hình thức kinh doanh chủ yếu áp dụng cho những nước nơi có nhiều lao động, giá rẻ, nhưng lại thiếu vốn, thiếu thị trường. Khi đó, các doanh nghiệp có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất và thâm nhập vào thị trường thế giới.
Mặc dù đây là hình thức kinh doanh mang lại khoản tiền thù lao thấp nhưng nó giải quyết được công ăn việc làm cho nước nhận gia công khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn, cả về công nghệ và có thể tạo được uy tín trên thị trường thế giới. Đối với nước thuê gia công hình thức này có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công và có thể thâm nhập vào thị trường của nước này.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong kinh doanh quốc. Nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt nam đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế để thúc đẩy nền công nghiệp phát triển. Gia công quốc tế có các hình thức sau:
Xét về quyền sở hữu nguyên liệu gia công quốc tế có thể tiến hành dưới hình thức sau:
- Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Trong trường hợp này, trong thời gian chế tạo quyền sở hữu về nguyên liệu vẫn thuộc về bên đặt gia công.
- Bên đặt gia công bán đứt nguyên liệu cho bên nhận gia công và sau thời gian sản xuất, chế tạo, sẽ mua lại thành phẩm. Trong trường hợp này, quyền sở hữu nguyên liệu chuyển từ bên đặt gia công sang bên nhận gia công.
- Ngoài hai hình thức trên người ta có thể áp dụng hình thức kết hợp. Trong đó bên đặt gia công chỉ giao nguyên liệu chính còn bên nhận gia công cung cấp nguyên liệu phụ.
Xét về mặt giá cả gia công người ta có thể chia gia công làm hai hình thức.
- Hợp đồng thực chi thực nhanh: trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.
- Hợp đồng khoán: trong đó người ta xác định một mức giá định mức cho mỗi sản phẩm bao gồm chi phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi chăng nữa, hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức đó.
Xét theo số bên tham gia quan hệ gia công ta có hai loại gia công sau đây:
- Gia công hai bên: trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia công.
- Gia công nhiều bên, còn được gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối tượng gia công của đơn vị sau, còn bên đặt gia công vẫn chỉ là một.
1.2.1.6. Tái xuất khẩu.
Tái xuất khẩu là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập nhưng không tiến hành các hoạt động chế biến.
Ưu điểm là doanh nghiệp có thể thu được l