Đề tài Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trong triết học

Triết học hiểu theo nghĩa chung nhất đó là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế giới. Triết học ra đời từ rất lâu đời qua một quá trình lịch sử rất lâu dài. Lịch sử triết học đó là một vấn đề rất quan trọng của triết học. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học nói chung thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Vấn đề này được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng.

doc29 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trong triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRONG TRIẾT HỌC . **** Triết học hiểu theo nghĩa chung nhất đó là môn khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế giới. Triết học ra đời từ rất lâu đời qua một quá trình lịch sử rất lâu dài. Lịch sử triết học đó là một vấn đề rất quan trọng của triết học. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học nói chung thì vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Vấn đề này được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai cấp đối kháng. Thường thường (trừ một số trường hợp ngoại lệ) Chủ Nghĩa Duy Vật thể hiện thế giới quan của những lực lượng tiên tiến, tiến bộ xã hội đại diện cho những tư tưởng tiên tiến của từng thời đại. Còn Chủ Nghĩa Duy Tâm (tuy không phải bao giờ cũng vậy) nhưng là thế giới quan của lực lượng suy tàn bảo thủ và phản động của xã hội, đại diện cho những tư tưởng trì trệ của từng thời đại. Trong thế giới quan của Chủ Nghĩa Duy Vật khẳng định tính thứ nhất có trước của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức. Họ cho rằng vật chất sinh ra trước ý thức và quyết định ý thức, còn ý thức có sau là sự phản ánh những mặt, những yếu tố của vật chất; và Chủ Nghĩa Duy Vật khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới. Ngược lại Chủ Nghĩa Duy Tâm khẳng định tính thứ nhất có trước của ý thức và tính thứ hai có sau của vật chất, họ cho rằng ý thức có trước vật chất và ý thức quyết định vật chất họ phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con người, họ cho rằng sự nhận thức chỉ có được ở thế giới thần linh thượng đế do thượng đế quyết định. Để thấy rõ dược cuộc đấu tranh giữa hai trường phái triết học Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm chúng ta nghiên cứu cuộc đấu tranh đó trong sự hình thành và phát triển của lịch sử triết học. Hiểu được vấn đề này chúng ta không chỉ dừng lại ở những hiểu biết thông thường mà nó còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với chúng ta trong việc giải quyết những vấn đề về thế giới quan và những vấn đề về kinh tế xã hội đang diễn ra xung quanh đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội . Để tìm hiểu cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm chúng ta có thể đi qua một số giai đoạn và một số nhân vật tiêu biểu ở những thời kỳ nhất định và cuộc đấu tranh giữa chúng. Chương I: CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM TRIẾT HỌC CỔ ĐẠI HY LẠP. ***** 1.1> Hoàn cảnh lịch sử : Hy Lạp là một nước nằm ven bờ Địa Trung Hải nơi có điều kiện rất thuận tiện cho việc giao lưu phát triển kinh tế cũng như phát triển nền nông nghiệp. Thế kỷ XV đến thế kỷ IX trước công nguyên chế độ công xã nguyên thuỷ đã hình thành và tan rã chế độ chiếm hữu nô lệ. Đã có những biến động lớn ở Hy Lạp về kinh tế xã hội người ta biết được do hai tập thơ nổi tiếng của Hô Mere sáng tác ( nhà thơ mù ). Vào thế kỷ V trước công nguyên xảy ra cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Ba Tư, kết thúc bằng chiến thắng thuộc về Hy Lạp mở ra một thời kỳ hưng thịnh về kinh tế và chính trị. Một quốc gia bao gồm 300 quốc gia nhỏ thành liên bang Hy Lạp trong đó có 2 bang lớn nhất thời kỳ này đó là Spac và Aten. Tuy nhiên hai bang này luôn luôn mâu thuẫn với nhau cho nên xảy ra cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm, cuối cùng Spac đã chiến thắng nhưng chính cuộc chiến tranh đó đã làm cho nền kinh tế Hy Lạp suy yếu nặng nề. Trong khi đó vua Phi-líp của Ma xe đoan đã đem quânchiếm toàn bộ Hy Lạp. Tuy bị xâm chiếm như vậy nhưng nền văn hoá Hy Lạp vẫn phát triển mạnh mẽ và chính nền văn hoá Hy Lạp đã chinh phục lại những người đi xâm chiếm với hoàn cảnh lịch sử như vậy đã phản ánh vào tư tưởng triết học. 1.2> Sự ra đời và phát triển của triết học : Từ những nét đặc thù về kinh tế xã hội trên đây, triết học Hy Lạp ra đời và mang những đặc điểm cơ bản sau đây. + Thứ nhất sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học Duy Tâm và Duy Vật Biện Chứng và Siêu Hình Vô Thần và Hữu Thần là nét nổi bật trong quá trình hình thành và phát triển của triết học. Trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa hai “ đường lối” triết học ; đường lối Duy Vật của Đe mô-crít và đường lối Duy Tâm của Platon. + Thứ hai các trường phái triết học nói chung đều có xu hướng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thổ và nhận thức luận triết học là những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. + Thứ ba triết học Hy Lạp cổ đại nói chung (cũng như triết học cổ đại của nhiều nước khác) còn ở trình độ trực quan chất phác đặc biệt là đối với các hệ thống triết học Duy Vật. Tuy vậy nó đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết học căn bản nó chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan Duy Vật. Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại rất quan trọng nó không chỉ đơn thuần là sự phân biệt giữa hai nền triết học Đông Tây cổ đại mà còn nói lên vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới nó là nền tảng cho sự phát triển của triết học Tây Âu trên 2000 năm sau. Có thể nói rằng từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra những cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa hai trường phái triết học Duy Vật và Duy Tâm. Điển hình của thời kỳ này ở Hy Lạp đó là cuộc đấu tranh giữa đường lối Duy Vật của Đe mo-crít và Duy Tâm của Platon. 1.3> Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Duy Tâm: Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm như trên đã nói đó là cuộc đấu tranh giữa trường phái Duy Vật của Đe mo-crít và Duy Tâm của Platon là tiêu biểu và điển hình hơn cả. Đe mo-crít (460-370 TCN) là “một trong những nhà Duy Vật lớn của thời kỳ cổ đại chiếm vị trí nổi bật trong triết học Duy Vật Hy Lạp cổ đại”(1) ông đã có quá trình tích luỹ kiến thức qua việc đi qua các nước ở phương đông, Babilon, là người am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Platon là đại diện cho trường phái Duy tâm, ông là người đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh cảu Chủ Nghĩa Duy Tâm khách quan đối lập với thế giới quan Duy Vật. Ông là người đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật đặc biệt là chống lại những đại biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời bấy giờ như Hê ra crít hay Đe mo crít.(1) - Về vấn đề khởi nguyên của thế giới , Đe mo-crít quan niệm rằng nguyên tử và khoảng trống là cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật đó là những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không màu sắc, không âm thanh, không mùi vị, không thể phân chia được, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự, tư thế. Nguyên tử có rất nhiều nhưng mỗi nguyên tử có một hình thức nhất định: hình cầu, góc cạnh và mỗi loại sinh vật đều được cấu thành bởi các nguyên tử do chúng kết hợp với nhau theo một trật tự nhất định. - Ông quan niệm sinh vật biết đổi là do sự sắp xếp các nguyên tử. Ông quan niệm về bản nguyên thế giới mang tính hình tượng nhưng chưa thoát khỏi trực quan cảm tính, biểu hiện là ông coi các nguyên tử có hình dạng nhất định. Còn Platon cho rằng ý niệm là nguồn gốc sinh ra thế giới. Ý niệm tồn tại ngoài con người, ngoài cảm giác của con người; “ý niệm tồn tại vĩnh viễn bất biến, bất động” (2). Các sự vật cụ thể có thể cảm thụ được bằng cảm giác chỉ là bản sao của các ý niệm dựa vào ý niệm hay đúng hơn là thế giới ý niệm. Platon thừa nhận có hai thế giới tồn tại: thế giới ý niệm, là thế giới tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động, tuyệt đối chân thực cơ sở tồn tại của thế giới sự vật cảm tính. Còn thế giới sự vật cảm tính là thế giới tồn tại không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng của ý niệm, do ý niệm sản sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm loài người cũng thuộc về thế giới này. - Về vũ trụ Đe mo-crít cho rằng vũ trụ là vô tận vĩnh cửu; có vô số thế giới phất sinh phát triển và tiêu diệt. Còn Platon thì ngược lại ông cho rằng vũ trụ này không tồn tại thực, tất cả chỉ là sự phức hợp của ý niệm do ý niệm quy định do thượng đế quyết định và không tồn tại. - Về vấn đề linh hồn: theo Đe mo-crít, ông đã bác bỏ quan niệm về sự sản sinh ra sự sống và con người của thần thánh. Theo ông sự sống là kết quả biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất hiện ở môi trường nước và dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới nước, sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn. Cuối cùng là con người ra đời trên quả đất. Ông đã phân biệt rõ ràng sự vật và sinh vật chúng khác nhau ở chỗ sự vật không có linh hồn, còn sinh vật có linh hồn: linh hồn được cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống như nguyên tử của lửa vận động với vận tốc cao. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể hưng phấn và vận động. Ông coi cái chết là sự phân tán của các nguyên tử cấu tạo nên thể xác và các nguyên tử cấu tạo nên linh hồn chứ không phải là linh hồn lìa khỏi thể xác. Tuy quan niệm của Đe mo-crít về linh hồn còn mang tính mộc mạc, song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại quan điểm duy tâm, tôn giáo về tính bất tử của linh hồn. Còn Platon cho rằng con người bao gồm linh hồn và thể xác tồn tại độc lập với nhau . “Linh hồn của con người là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do thượng đế sáng tạo ra do đó nó bất tử và tồn tại vĩnh hằng”(2). Khi con người chết linh hồn sẽ thoát ra khỏi con người và bay lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời, linh hồn bay xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con người hoàn chỉnh bao gồm cả linh hồn và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con người linh hồn đã lãng quên những điều quan sát được ở thế giới những ý niệm. Vì thế, nhận thức của con người thực chất là sự hồi tưởng, sự nhớ lại của linh hồn về những điều mà nó đã lãng quên. -Về vấn đề nhận thức: “Đe mo-crít là người có công lao to lớn trong lịch sử triết học về vấn đề xây dựng lý luận nhận thức vai trò của cảm giác vớ tính cách là điểm khởi đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức thế giới xung quanh”(2). Theo Đe mo-crít sở dĩ con người có những cảm giác khác nhau về màu sắc mùi vị, âm thanh nóng lạnh là do những nguyên tử khối hợp tạo nên chủ thể nhận thức. Điều đó có nghĩa là đối tượng của nhận thức là vật chất thế giới xung quanh con người và nhờ sự tác động của đối tượng nhận thức vào con người nên con người mới nhận thức được. Ông chia ra nhận thức thành nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối là nhận thức do các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý là nhận thức do sự phân tích sâu sắc sự vật để nắm chắc bẳn chất bên trong của nó. Ông quan niệm rằng hai dạng nhận thức đó có liên quan với nhau chặt chẽ. Trong đó cảm giác là bước đầu của nhận thức. Ông xây dựng nên thuyết “hình ảnh”(I-dô-lơ) mộc mạc. Ông quan niệm bề ngoài của sự vật toát ra những hơi thở tinh tế tạo thành hình ảnh của chúng, những hơi thở tinh tế đó tác động vào cơ quan cảm giác của con người làm cho mọi người cảm nhận được sự vật. Song cảm giác là nhận thức “mờ tối” vì nó chưa là cho con người hiểu được bản chất tinh tế nằm sâu trong sự vật. Do đó con người phải dựa vào nhận thức sâu sắc hơn. Qua đây chúng ta có thể thấy theo Đê mo-crít “ lý tính”, phải dựa vào “những dẫn chứng” do cảm tính đem lại và sau đó cần phải đi sâu vào phân tích tìm chân lý đang còn nằm sâu dưới đáy bể. Điều này có thể thấy rằng ông không hề phủ nhận khả năng nhận thức chân lý khách quan của cin người. Còn Platon cho rằng chỉ có nhận thức lý tính đưa vào khái niệm mới có thể đạt tới tri thứcchân thực, nhân thức cảm tính không bao giờ đạt tới tri thức chân thực mà chỉ đưa lại dư luận. Thực chất của vấn đề này là Platon đã đề cao vai trò của nhận thức lý tính và hạ thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Ông cho rằng nhận thức chẳng qua là sự hồi tưởng, nhớ lại những ý niệm. - Về quan điểm chính trị- xã hội : Đe mo-crít đứng trong lập trường của phái chủ nô dan chủ, kịch liệt chống lại phái chủ nô quý tộc (2). Ông ra sức bảo vệ và tuyên truyền cho chế độ dân chủ của chủ nô trong đó thể hiện quyền lợi của mình gắn liền với sự phát triển ngày càng một mạnh mẽ của thương mại và công nghiệp. Ông đề cao, ca ngợi cổ vữ cho tình thân ái, tính ôn hoà lợi ích chung và quyền lợi chung của công dân tự do. Theo ông “ cần phải ưa thích cái nghèo trong một Nhà nước dân chủ hơn so với cái gọi là cuộc sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế tựa như là tự do tốt hơn nô lệ” (3). Đương nhiên là do xuất thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ Đe mo-rít chỉ đề cập đến nền dân chủ của chủ nô, còn bản thân nô lệ thì cũng như các nhà tư tưởng khác, ông cho rằng phải biết tuân theo người chủ nô. Ông đề cao Nhà nước, chính Nhà nước đóng vai trò duy trì trật tự và điều hành xã hội. Theo Đe mo-crít cần phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó. Phương châm tư tưởng của Đe mo-crít là thà sống nghèo khổ còn hơn là giàu có nhưng mất tự do dân chủ. Mục tiêu của con người là sống hạnh phúc nhưng hạnh phúc không đơn thuần chỉ là giàu có. Ông khẳng định hạnh phúc là sự thanh thản trong tâm hồn và được tự do. Chỉ có người biết bằng lòng với sự hưởng lạc vừa phải thì mới được hạnh phúc. Còn Platon: ông đề cao vai trò của chế độ quý tộc đứng trên lập trường của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chỉ tiến bộ của xã hội. Ông cho rằng linh hồn gồm các bộ phận lý tính, ý chí và cảm tính trong xã hội có các hạng người tương ứng với các bộ phận của linh hồn. Lý tính là cơ sở của các đức tính cao cả chỉ có được ở những nhà triết học, các nhà thông thái ; ý chí là cơ sở của đức tính can đảm. Nó thể hiện ở trong những người lính, những chiến binh. Cảm tính là cơ sở của các đức tính thận trọng. Đức tính này thường có ở những người dân tự do, những người thợ thủ công. Platon đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông nô lệ không phải là người mà chỉ là động vật biết nói, không có đạo đức. Platon chủ trương duy tri các hạng người trong xã hội, cũng có nghĩa là duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi người. Nhà nước ra đời là để đáp ứng những nhu cầu đó. Theo Platon hình thức cộng hoà là “Nhà nước lý tưởng”. Trong đó quyền thống trị tuyệt đối về tầng lớp chủ nô quý tộc. Nhà nước, đó là hiện thân của cả ba đức tính đó là thông thái, can đảm và thận trọng. Trong “Nhà nước lý tưởng”, ông chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc trưng đạo đức. Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái, giữ vai trò lãnh đạo xã hội ; đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ “Nhà nước lý tưởng”; đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công và những người tự do khác làm ra sản phẩm nuôi sống Nhà nước. Như vậy, chúng ta thấy ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm mà đại biểu tiêu biểu nhất là Đe mo-crít của phái và Platon của phái duy tâm. Bên cạnh đó còn có nhiều nhà triết học khác của phái duy vật như Anatago. Am pê đốc lơ hay Ê pi crát .v.v... Có thể thấy rằng ngay từ thời cổ đại nhận thức của con người tuy còn nhiều hạn chế song giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm đã hình thành nên cuộc đấu tranh gay gắt không thể điều hoà được về mọi mặt trong xã hội . Chương II. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ. ****** 2.1 Hoàn cảnh lịch sử : Thời kỳ trung cổ là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và đánh dấu sự ra đời của chế độ phong kiến. Những cuộc nổi dậy của giai cấp nô lệ mà đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Xpắc Ta quýt rất lớn đã thu hút rất nhiều người tham gia đã thay đổi hình thức bóc lột siêu kinh tế sang phát canh thu địa tô. Trong xã hội đã diễn ra sự phân hoá giai cấp rất sâu sắc, đã hình thành hai giai cấp cơ bản củ phương thức sản xuất phong kiến đó là các địa chủ phong kiến và giai cấp nông nô. Nhưng giai cấp nông nô lại bị cột chặt vào ruộng đất của giai cấp phong kiến bởi những chính sách thuế khoá nặng nề. Nông nô không chỉ lệ thuộc vào thân thế và họ không có quyền lợi gì. Lê nin đã từng nói đây là sự lệ thuộc nhục nhã về mặt có nhân và tối tăm về mặt trí tuệ. - Về kinh tế xã hội : Thời kỳ này ở Tây Âu là thời kỳ tồn tại của nền kinh tế tự cung, tự cấp. Mọi sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của các điền trang, thái ấp mà không nhằm mục đích trao đổi. Mỗi điền trang thái ấp là một khu biệt lập khép kín. Nền kinh tế thời kỳ này phát triển một cách ì ạch và chậm chạp. - Về tinh thần, đây là thời kỳ thống trị của thế giới quan nhà thờ và tôn giáo. Nhà thờ và tu viện là những tên đại địa chủ chiếm nhiều ruộng đất, có những tu viện chiếm hàng trăm ngàn hécta ruộng đất. Không những thế nhà thờ còn nắm trong tay quyền lực chính trị và luật pháp. Cho nên thời kỳ này cả khoa học và triết học không phát triển được. Các nhà khoa học và thần học không thoát ra khỏi sự giải thích và bình luận của kinh thánh, nên xét về mặt phát triển thì đây là một bước thụt lùi so với trước thời cổ đại. 2.2 Sự thống trị của thần quyền phong kiến không những kìm hãm sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến triết học. Triết học bị phụ thuộc vào thần học. Chủ Nghĩa Duy Vật gắn liền với tư duy khoa học thời kỳ này không có điều kiện để phát triển. Chủ nghĩa kinh viện ra đời đã trở thành nét đặc trưng của triết học Tây Âu thời trung cổ. Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thức chiếm độc quyền giảng dạy trong nhà trường. Triết học này khi ra đời là đã xác định nhiệm vụ: “Đầy tớ của thần học và bảo vệ trật tự phong kiến”. Vấn đề này được các nhà kinh viện quan tâm nhất đó là mối quan hệ giữa “cái chung” và “cái riêng”, cái nào có trước cái nào có sau. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm khác nhau kéo dài vào thế kỷ và phân chia thành hai phái “phái duy danh” và “phái cuy thực”. Đây là cuộc đấu tranh xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học Tây Âu thời trung cổ. Phái duy thực cho rằng cái chung cái phổ biến các khái niệm chung là tồn tại thực là cái có trước. Nó là một thực thể tinh thần không phụ thuộc vào sự vật cụ thể. Phái duy thực lấy triết học Platon làm cơ sở lý luận và phái này về sau họ còn dựa vào học thuyết “ hình thức của Đrít xtốt. Chẳng hạn con người nói chung là sự tồn tại ý niệm về con người. Từ đó, nó quyết định sự tồn tại của con người đơn nhất. Phái duy danh quan niệm rằng cái chung, khái niệm cái chung cái phổ biến không tồn tại thực, không độc lập với con người. Nó chỉ là những tên gọi đơn giản mà con ngưới sáng tạo ra. Không có “con người” hay “cái nhà” nói chung mà chỉ có con người hay cái nhà tồn tại thực. Cuộc đấu tranh giữa hai trường phái trên là sự thể hiện hai khuynh hướng đối lập nhau trong lịch sử triết học : Chủ Nghĩa Duy Tâm và Chủ Nghĩa Duy Vật. Ẩn dấu đằng sau cái vỏ thần học là sự tồn tại khách quan mà con người có thể cảm nhận được, là biểu hiện của phái duy danh. Trái lại, nhận thức, tư tưởng, khái niệm có trước sự vật là biểu hiện của phái duy thực. Như vậy chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các nhà triết học duy danh gần gũi với Chủ Nghĩa Duy Vật còn các nhà triết học duy thực là biểu hiện của Chủ Nghĩa Duy Tâm. Như vậy cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực với chủ nghĩa duy danh ở triết học Tây Âu thời trung cổ thực chất là cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Mặc dù vậy trong thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Tâm thắng thế nhờ sự ủng hộ của thiên chúa giáo và kinh viện . Trong thời kỳ trung cổ triết học Tây Âu có rất nhiều những đại biểu, đại diện cho cả hai phái duy danh và duy thực. Và sau đây là quan điểm của một số đại biểu tiêu biểu nhất của cả hai phái. - Tô Mát Đa Canh: Ông là đại biểu xuất sắc nhất của phái duy thực trong thời kỳ triết học trung cổ Tây Âu. Học thuyết của ông được thiên chúa giáo coi là triết học chính thức của giáo hội thiên chúa. Tô Mát Đa Canh nghiên cứu nhiều lĩnh vực thần học, triết học, pháp quyền... với 18 quyển sách trong tuyển tập của ông hợp thành bộ bách khoa toàn thư về hệ thông tư tưởng thông trị thời trung cổ hưng thịnh. Tô Mát Đa Canh nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và thần học, giữa lý trí và niềm tin. Ông khẳng định rõ ràng nhưng lại không đối lập nhau thần học và triết học. Ranh giới đó thể hiện ở chỗ nếu như đối tượng nghiên cứu của triết học là chân lý của lý trí thì đối tượng nghiên cứu của thần học là chân lý của niềm tin. Nhưng theo ông cả hai đều có một đối tượng chung đó là thượng đế. Chúng không hề đối lập với nhau nhưng cuối cùng Tô Mát Đa Canh lại hạ t
Tài liệu liên quan