Những năm qua kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, những lợi ích mà kinh tế đem lại cho đời sống xã hội là không thể phủ nhận xong cũng cần quan tâm đến mặt trái của nó. Cùng với tăng trưởng kinh tế, những vấn đề về xã hội cũng cần được quan tâm, một trong số đó là vấn đề tội phạm. Điều này thể hiện ở việc gia tăng tội phạm không chỉ về số lượng mà còn xuất hiện rất nhiều loại tội phạm mới. Mặt khác, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tội phạm còn gia tăng với xu hướng sử dụng các công cụ phương tiện và phương thức phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Điều này khiến cho công tác điều tra tội phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Việc tội phạm sử dụng các thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới vào hành vi phạm tội của mình đòi hỏi công tác điều tra, khám phá tội phạm cũng cần đổi mới về phương tiện và cách thức tiến hành điều tra.
Chính vì vậy, đã đến lúc công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra tại hiện trường nói chung cần được quan tâm đúng mức. Hiện nay, khám nghiệm hiện trường thường không được coi trọng so với các hoạt động điều tra khác. Nhiều quan điểm cho rằng, hiệu quả của công tác điều tra phá án phụ thuộc nhiều vào việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng. Trong khi đó, hiện trường lại là nơi lưu giữ nguồn chứng cứ vật chất quan trọng đối với bất kỳ một vụ việc mang tính hình sự nào. Mỗi hành vi được thực hiện đều gây ra những tác động lên thế giới vật chất xung quanh. Do đó, dù muốn hay không thì một hành vi phạm tội được thực hiện cũng sẽ để lại những dấu vết. Điều này vô cùng quan trọng vì tội phạm ngày càng trở nên tinh vi và chuyên nghiệp hơn, chỉ có những chứng cứ xác thực, mà một số lượng không nhỏ, thu được tại hiện trường mới giúp khám phá sự thật vụ án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp tăng cường hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra khám phá tội phạm nói chung là cần thiết. Để làm được điều này, cần nghiên cứu có hệ thống hoạt động khám nghiệm hiện trường nhằm thấy được những thành tựu cũng như tồn tại thiếu sót, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất tích cực giúp hoàn thiện hệ thống lý luận cũng như nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường trên thực tế. Chính vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Khám nghiệm hiện trường” là phù hợp với thực tiễn hiện nay.
52 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 10727 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khám nghiệm hiện trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Những năm qua kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ, những lợi ích mà kinh tế đem lại cho đời sống xã hội là không thể phủ nhận xong cũng cần quan tâm đến mặt trái của nó. Cùng với tăng trưởng kinh tế, những vấn đề về xã hội cũng cần được quan tâm, một trong số đó là vấn đề tội phạm. Điều này thể hiện ở việc gia tăng tội phạm không chỉ về số lượng mà còn xuất hiện rất nhiều loại tội phạm mới. Mặt khác, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, tội phạm còn gia tăng với xu hướng sử dụng các công cụ phương tiện và phương thức phạm tội ngày càng tinh vi hơn. Điều này khiến cho công tác điều tra tội phạm trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Việc tội phạm sử dụng các thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới vào hành vi phạm tội của mình đòi hỏi công tác điều tra, khám phá tội phạm cũng cần đổi mới về phương tiện và cách thức tiến hành điều tra.
Chính vì vậy, đã đến lúc công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra tại hiện trường nói chung cần được quan tâm đúng mức. Hiện nay, khám nghiệm hiện trường thường không được coi trọng so với các hoạt động điều tra khác. Nhiều quan điểm cho rằng, hiệu quả của công tác điều tra phá án phụ thuộc nhiều vào việc hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng... Trong khi đó, hiện trường lại là nơi lưu giữ nguồn chứng cứ vật chất quan trọng đối với bất kỳ một vụ việc mang tính hình sự nào. Mỗi hành vi được thực hiện đều gây ra những tác động lên thế giới vật chất xung quanh. Do đó, dù muốn hay không thì một hành vi phạm tội được thực hiện cũng sẽ để lại những dấu vết. Điều này vô cùng quan trọng vì tội phạm ngày càng trở nên tinh vi và chuyên nghiệp hơn, chỉ có những chứng cứ xác thực, mà một số lượng không nhỏ, thu được tại hiện trường mới giúp khám phá sự thật vụ án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu nhằm tìm ra những giải pháp tăng cường hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường nói riêng và công tác điều tra khám phá tội phạm nói chung là cần thiết. Để làm được điều này, cần nghiên cứu có hệ thống hoạt động khám nghiệm hiện trường nhằm thấy được những thành tựu cũng như tồn tại thiếu sót, trên cơ sở đó đưa ra những đề xuất tích cực giúp hoàn thiện hệ thống lý luận cũng như nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường trên thực tế. Chính vì vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Khám nghiệm hiện trường” là phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về công tác khám nghiệm hiện trường và thực trạng của công tác này tại Việt Nam thời gian qua. Đồng thời, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này trong thực tế.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu khái niệm, vai trò của công tác khám nghiệm hiện trường đối với thực tiễn điều tra hình sự, trình tự cơ bản của khám nghiệm hiện trường cũng như những yêu cầu pháp lí đặt ra đối với hoạt động này.
Về mặt thực tiễn, đề tài khảo sát, nghiên cứu thực trạng công tác khám nghiệm hiện trường trong thời gian từ 2001 đến nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu có hệ thống các vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường và thực tiễn công tác khám nghiệm hiện trường thời gian qua tại Việt Nam. Khẳng định tầm quan trọng của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự. Bên cạnh đó, đề cập tới những hạn chế, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của khám nghiệm hiện trường.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của CN Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê... được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài.
5. Cấu trúc đề tài
Cấu trúc khóa luận gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm ba chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận cơ bản về khám nghiệm hiện trường.
- Chương II: Trình tự khám nghiệm hiện trường.
- Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của khám nghiệm hiện trường.
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHÁM NGHIỆM
HIỆN TRƯỜNG
1. Khái niệm hiện trường và phân loại hiện trường
1.1. Khái niệm
“Hiện trường” là một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, xã hội. Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội năm 1997 viết: “Hiện trường là nơi xảy ra sự việc”. Đây là một khái niệm có tính khái quát chung nhất cho các loại hiện trường. Khái niệm này đã chỉ rõ những thuộc tính cơ bản của hiện trường. Đó là:
- Thứ nhất, hiện trường là “nơi”, đó là sự tồn tại của một địa điểm trong không gian xác định, ở đó xảy ra một sự việc, hiện tượng và sự việc hiện tượng đó được kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định.
- Thứ hai, phải có sự việc xảy ra, những sự việc này mang tính chất bất kỳ, ngẫu nhiên. Điều đó có nghĩa là mỗi sự việc, hiện tượng, quá trình nào đó xảy ra trong hiện thực khách quan thì đều phải có hiện trường.
Trong điều tra hình sự nói riêng cũng như trong tố tụng hình sự nói chung, nhận thức một cách đúng đắn và đầy đủ khái niệm “hiện trường” có ý nghĩa quan trọng trong công tác điều tra, xét xử và phòng ngừa tội phạm.
Điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự (Bộ luật TTHS) quy định: “Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án...” Theo quy định này của Bộ luật TTHS, hiện trường được hiểu là nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm. Tuy nhiên, khoản 2, Điều 150 Bộ luật TTHS cũng quy định “khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự...”. Có nghĩa là việc khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi xác định có hay không có hành vi phạm tội và khám nghiệm hiện trường trong giai đoạn tố tụng này giúp cho cơ quan có thẩm quyền thu thập những tài liệu quan trọng nhằm xác định có hành vi phạm tội xảy ra hay không, trên cơ sở đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Do đó, trên thực tế sẽ tồn tại trường hợp khám nghiệm hiện trường đã được thực hiện nhưng sau đó lại có quyết định không khởi tố vụ án hình sự, tức là không có tội phạm, cũng có nghĩa là hiện trường đã được khám nghiệm trước đó không phải là “nơi phát hiện tội phạm” theo như quy định của Bộ luật TTHS. Để khắc phục tình trạng này, khoa học điều tra hình sự đưa ra khái niệm “hiện trường” bao quát và toàn diện hơn.
Hiện trường theo quan điểm của khoa học điều tra hình sự được khái niệm như sau: “hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện các vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự”. Khái niệm này bao hàm hai nội dung:
Thứ nhất, khái niệm chỉ rõ hình thức tồn tại của hiện trường với tư cách là một địa điểm cụ thể có một khoảng không gian xác định và tồn tại trong khoảng thời gian nào đó. Hiện trường gồm hai loại địa điểm đó là nơi xảy ra và nơi phát hiện ra vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự.
- Nơi xảy ra vụ việc là nơi mà quá trình diễn biến của các vụ phạm tội hay vụ việc mang tính hình sự đã để lại những dấu vết, vật chứng trên đó. Nơi xảy ra vụ việc có thể là: nơi chuẩn bị, nơi tiến hành, nơi che giấu hành vi phạm tội
- Nơi phát hiện vụ việc có thể chính là nơi xảy ra tội phạm hay các vụ việc mang tính hình sự hoặc không là nơi xảy ra nhưng có thể là nơi tìm thấy được các dấu vết, vật chứng có liên quan đến vụ việc đó. Trong trường hợp nơi phát hiện vụ việc khác nơi xảy ra vụ việc, đó có thể là:
+ Nơi phát hiện ra dấu vết trong vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự.
+ Nơi phát hiện ra công cụ, phương tiện phạm tội.
+ Nơi bắt giữ tội phạm đang trên đường vận chuyển: tức là hành vi được quy định trong cấu thành tội phạm đã hoàn thành rồi nhưng trên đường lưu thông vận chuyển thì bị phát hiện, bắt giữ.
Thứ hai, hiện tượng vật chất xảy ra trong không gian hiện trường là các vụ phạm tội hoặc những vụ việc mang tính hình sự.
- Các vụ phạm tội: được quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
- Những vụ việc có tính hình sự là những hành vi có dấu hiệu của tội phạm nhưng chưa xác định được đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm. Ví dụ những sự cố kỹ thuật bất thường, những vụ chết người không tự nhiên.v.v..., những trường hợp này vẫn cần tiến hành khám nghiệm hiện trường để xác định đúng nguyên nhân của sự việc, từ đó quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, khoa học điều tra hình sự đã xây dựng được một khái niệm về hiện trường tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo khoa học. Điều này rất có ý nghĩa đối với công tác khám nghiệm hiện trường, giúp cơ quan điều tra thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu phục vụ cho các bước điều tra tiếp theo.
1.2. Phân loại hiện trường
Hiện trường của các vụ việc đã xảy ra có nhiều loại khác nhau, nó đa dạng về hình thức, phong phú về chủng loại. Mục đích của sự phân loại hiện trường nhằm giúp cho quá trình bảo vệ và khám nghiệm hiện trường được kịp thời, nhanh chóng, phục vụ tốt cho quá trình điều tra làm rõ sự việc xảy ra.
Có thể dựa vào một số căn cứ sau để phân loại hiện trường:
* Căn cứ vào địa điểm xảy ra vụ việc, hiện trường được chia thành các loại:
- Hiện trường trong nhà. Đó là hiện trường được che chắn hay bao bọc xung quanh bởi các loại vải, phông bạt, mái che, tường nhà v.v...(có mái che chắn bên trên hay được bao bọc xung quanh mà không kể đến chất liệu của mái che là tường vôi, vải dù hay mái rạ v.v...).
- Hiện trường ngoài trời. Đó là hiện trường không được che chắn, bảo vệ bởi bất cứ một loại mái che nào.
- Hiện trường trên các phương tiện giao thông.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc xác định các đặc điểm về sự hình thành, tồn tại và biến đổi của dấu vết trên mỗi loại hiện trường. Nếu là hiện trường ngoài trời thì hệ thống dấu vết sẽ bị biến đổi rất nhanh bởi các yếu tố tự nhiên như mưa, nắng, gió, độ ẩm, thời gian... các yếu tố sinh vật và con người. Loại hiện trường này cần được bảo vệ chu đáo, cẩn thận bằng các biện pháp thích hợp tránh để hiện trường bị xáo trộn, có thể khoanh vùng không cho mọi người đi lại tại khu vực đó hoặc dùng bạt hay vải che để che đậy hiện trường.v.v... Nếu hiện trường trong nhà thì các dấu vết ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tự nhiên, sinh vật nhưng lại bị ảnh hưởng rất lớn bởi con người, đặc biệt là thủ phạm và người thân thủ phạm do họ tìm mọi cách để xóa dấu vết và phi tang vật chứng hoặc do chính nạn nhân do không biết đã vô tình làm xáo trộn hiện trường. Do vậy, khi nhận được tin báo lực lượng điều tra cần đến ngay hiện trường, yêu cầu mọi người ra khỏi khu vực hiện trường không cho ai ra vào đó cho đến khi lực lượng khám nghiệm tiến hành khám nghiệm xong. Như vậy, đối với mỗi loại hiện trường cần có cách thức bảo vệ, thu lượm phù hợp và hiệu quả.
* Căn cứ vào nội dung và tính chất của vụ việc xảy ra, hiện trường được chia thành: hiện trường có người chết, hiện trường trộm, hiện trường súng đạn, hiện trường cháy nổ-sự cố kỹ thuật, hiện trường tai nạn giao thông.v.v...
Phân loại hiện trường theo cách này giúp cơ quan điều tra xác định được nơi và loại dấu vết tồn tại trên hiện trường cũng như xác định được những loại dấu vết nào cần được phát hiện và thu luợm, đồng thời giúp cho công việc thống kê tội phạm được nhanh chóng. Dấu vết bao giờ cũng được hình thành theo quy luật nhất định phù hợp với tính chất của sự việc xảy, ví dụ: khi cơ quan điều tra xác định hiện trường một vụ án mạng mà nạn nhân bị tử vong do bị trúng đạn thì dấu vết cần phải tìm kiếm là vỏ đạn rơi lại tại hiện trường... hay hiện trường của các vụ trộm thường có các dấu vết vân tay, dấu giày dép, các dấu vết của dụng cụ phá cửa... Đây sẽ là những định hướng cho các cán bộ điều tra trong quá trình khám nghiệm hiện trường.
* Căn cứ vào diễn biến của sự việc xảy ra: Một hiện trường có thể được quy tụ lại ở một địa điểm, nhưng cũng có thể có nhiều địa điểm khác nhau, đó chính là những bộ phận của hiện trường. Số lượng những bộ phận của hiện trường nhiều hay ít phần lớn phụ thuộc vào diễn biến hành vi của kẻ phạm tội, do đó được chia thành: nơi chuẩn bị thực hiện hành vi phạm tội, nơi thực hiện hành vi phạm tội, nơi che giấu hành vi phạm tội.
* Căn cứ vào tình trạng của hiện trường mà chia hiện trường thành hai loại: hiện trường còn nguyên vẹn và hiện trường đã bị xáo trộn.
- Hiện trường còn nguyên vẹn là hiện trường từ khi phát hiện triển khai công tác bảo vệ đến khi khám nghiệm các dấu vết vật chứng chưa bị thay đổi, xáo trộn (hiểu theo nghĩa tương đối), do đó chưa ảnh hưởng tới dấu vết về độ chính xác và đầy đủ.
- Hiện trường bị xáo trộn là hiện trường từ khi phát hiện triển khai công tác bảo vệ đến khi khám nghiệm, các dấu vết, vật chứng đã bị biến đổi, mất mát. Nguyên nhân của sự xáo trộn là do sự tác động của tự nhiên, sinh vật, con người... dẫn đến những thông tin thu thập được tại hiện trường bị sai lệch. Thực tế cho thấy hiện trường các vụ trộm thường hay bị xáo trộn do chủ nhà thường kiểm tra lại tài sản còn lại của mình sau khi bị mất trộm. Điều này đã làm mất đi những dấu vết quan trọng mà thủ phạm đã để lại tại hiện trường.
Cách phân loại này có ý nghĩa chủ yếu trong khi đánh giá các dấu vết thu được trên mỗi loại hiện trường, từ đó nhận định về đối tượng gây án. Do vậy, những dấu vết thu được ở hiện trường bị xáo trộn cần phải được phân tích thận trọng và chính xác trong khi sử dụng chúng làm chứng cứ.
2. Vai trò của khám nghiệm hiện trường trong điều tra hình sự
“Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại hiện trường nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự đã xảy ra.” (1)
Khi bọn tội phạm thực hiện hành vi phạm tội của mình, nó không chỉ xâm hại đến một khách thể nhất định được pháp luật bảo vệ mà còn tác động vào môi trường xung quanh, gây ra những biến đổi. Những biến đổi này được phản ánh lại trong môi trường vật chất xung quanh với tính cách là một chỉnh thể, đó không chỉ là các phản ánh nhận thức được thể hiện qua lời khai nhân chứng, tố giác... mà còn được phản ánh bằng những thay đổi vật chất như: dấu vết chân, tay, dày, dép... Hơn nữa, hiện trường và thủ phạm có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau, chúng tác động lẫn nhau đồng thời phản ánh lẫn nhau. Cả hai vừa là cái phản ánh, vừa là cái được phản ánh. Có nghĩa là trong quá trình thực hiện tội phạm, thủ phạm đã gây nên những biến đổi vật chất, những biến đổi này được phản ảnh tại hiện trường qua các dấu vết. Bên cạnh đó, thủ phạm cũng chịu sự tác động trở lại của hiện trường, tức là kẻ phạm tội cũng mang theo những dấu vết của hiện trường như: đất, sơn, dầu mỡ, mảnh kính... Do vậy, chỉ khi nào nhận thức được rằng hiện trường và tội phạm phản ảnh lẫn nhau thì khi đó mới xác định được một cách toàn diện ý nghĩa hình sự của hiện trường, đó là nguồnduy nhất cung cấp các chứng cứ vật chất phục vụ cho công tác điều tra xét xử.
Việc thu thập chứng cứ phải đáp ứng được ba yêu cầu cơ bản đối với chứng cứ: tính khách quan; tính liên quan và tính hợp pháp. Quá trình thu thập và bảo quản các dấu vết, vật chứng, các tin tức tài liệu phải được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 75 - Bộ luật TTHS và các quy định khác của bộ luật này, có như vậy các chứng cứ thu được mới có giá trị chứng minh.
Công tác khám nghiệm hiện trường có một số nhiệm vụ cụ thể sau:
- Ghi nhận vị trí, trạng thái, quang cảnh chung của hiện trường;
- Phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản các loại dấu vết, vật chứng liên quan đến sự việc đã xảy ra;
- Lập và hoàn chỉnh các văn bản của hồ sơ khám nghiệm hiện trường;
- Phát hiện những sơ hở, thiếu sót của ta mà bọn tội phạm thường lợi dụng và đề xuất các biện pháp phòng ngừa tích cực.
Những chứng cứ, tài liệu thu thập tại hiện trường có vai trò quan trọng trong việc đưa ra một số nhận định về các vấn đề cơ bản như: quá trình diễn biến của sự việc, nội dung, tính chất của nó; có thể biết được phương thức, thủ đoạn hoạt động, công cụ, phương tiện phạm tội; thời gian xảy ra sự việc, số lượng người thực hiện và đặc điểm của chúng. Những kết quả đó đã giúp cho lực lượng điều tra có những định hướng đúng trong quá trình điều tra vụ án, không để lọt tội phạm hay bắt sai người vô tội, từ đó đưa ra những quyết định tiếp theo giúp giải quyết vụ án chính xác, triệt để.
Ví dụ: Vụ án Lương May Khăm sinh năm 1982 và Lương Thị Sằn sinh năm 1981, đều là người dân tộc Thái, đều trú tại bản Piêng Hòm, xã Phà Đánh, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An bị giết, cướp vào ngày 25/12/2005.
Nội dung vụ việc: Ngày 25/12/2005 Lương May Khăm và Lương Thị Sằn đi hái củi nhưng không thấy về. Gia đình tổ chức đi tìm và phát hiện Lương May Khăm đang bị thương nặng, Lương Thị Sằn đã chết trên đồi thuộc bản Piêng Hòm xã Phà Đánh huyện Kỳ Sơn. Lương May Khăm được đưa đi cấp cứu và đã chết vào lúc 19h30phút ngày 26/12/2005. Qua công tác khám nghiệm hiện trường thu được 01 chiếc gậy gỗ kích thước 67(7cm, trên gậy có dính một số vết màu nâu sẫm nghi máu đã khô và 01 sợi tóc (dạng tóc người). Kiểm tra tài sản, đồ vật mà hai người mang theo thấy mất 02 đôi bông tai bằng vàng. Đó là cơ sở để điều tra viên nhận định đây là vụ án giết người, cướp của. Khoanh vùng các đối tượng nghi vấn và đã nhanh chóng bắt được thủ phạm là người cùng bản khi đối tượng đang trên đường trốn chạy sang Lào.(1)
Ngoài ra, kết quả khám nghiệm hiện trường còn đóng vai trò là bước đệm để cơ quan điều tra quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Ví dụ: ngày 14/10/2005, trực ban PC21 Công an Hải Phòng nhận được tin báo tại mương nước thuộc xã Đại Bản, huyện An Dương, Hải Phòng có một xác chết là nam giới. Nhận định ban đầu là nạn nhân bị đánh và ngã xuống nước chết. Hiện trường vẫn còn lưu lại vết màu nâu đỏ dính trên lá chuối cạnh bờ mương nghi là máu. Nhưng khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, đoàn khám nghiệm đã kết luận nạn nhân do say rượu, hoặc một loại chất kích thích nào đó đã ngã xuống mương nước dẫn đến ngạt nước chết và dấu vết màu nâu đỏ dính trên lá chuối tại bờ mương nước không phải là máu mà chỉ là nước bã trầu. Từ kết quả khám nghiệm hiện trường và các nhận định khác, cơ quan điều tra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. (1)
Bằng công tác khám nghiệm hiện trường, lực lượng điều tra cần thu lượm toàn bộ những gì tội phạm để lại để từ đó có thể tiến hành truy nguyên tội phạm. Đối với nhiều vụ án thủ phạm thường tìm mọi cách thủ tiêu chứng cứ, lẩn trốn hoặc ngoan cố không chịu khai báo. Do vậy, chỉ khi đưa ra được những chứng cứ không thể chối cãi, bọn chúng mới chịu nhận tội. Hiện nay, dấu vết vân tay là một trong số những loại dấu vết có khả năng truy nguyên cao. Qua việc tra cứu tàng thư CMND, cơ quan điều tra có thể xác định chính xác đối tượng để lại dấu vết tại hiện trường vụ án. Đồng thời, dấu vết vân tay còn giúp cơ quan điều tra xác định tung tích nạn nhân, từ đó tiến hành những nghiệp vụ điều tra tiếp theo.Ví dụ như vụ án Lương Văn Luận sinh năm 1979 trú tại xã Khe Bố, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An bị đánh chết ngày 04/01/2003.
Nội dung vụ việc: Ngày 10/01/2003 quần chúng nhân dân phát hiện 01 xác chết trôi dạt vào bờ sông Lam thuộc địa bàn xã Lạng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Mặc dù tử thi đang ở thời kỳ phân hủy mạnh nhưng qua công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đã xác định nạn nhân chết do vết đánh ở đầu gây chấn thương sọ não. Sau khi bị đánh chết nạn nhân mới bị vứt xuống sông. Qua tiến hành lăn tay và tra cứu tàng thư chứng mi