Đề tài Khảo sát ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc trừ sâu đến các loài chân khớp trên cây dưa leo tại huyện Củ Chi – Tp.HCM

Rau là một thực phẩm không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Cùng với thức ăn động vật, rau cung cấp những dinh dưỡng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người. Tục ngữ có câu: “Cơm không rau như đau không thuốc”. Rau cung cấp cho cơ thể những chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin, các axít hữu cơ, chất khoáng Việc tăng cường rau quả vào khẩu phần ăn sẽ giúp cải thiện tình trạng sức khỏe như giảm huyết áp, tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể và phòng bệnh tật. Các loại rau, củ, quả quen thuộc cũng chính là các vị thuốc thần diệu. Ngoài ra trong rau quả còn có các men ảnh hưởng tốt tới quá trình tiêu hóa. Xenluloza của rau quả có vai trò sinh lý lớn vì cấu trúc của nó mịn màng. Trong rau, xenluloza ở dưới dạng liên kết với các chất pectin tạo thành phức hợp pectin - xenluloza. Phức chất này kích thích mạnh chức năng nhu động ruột và tiết dịch ruột. Xenluloza của rau còn có khả năng bài xuất cholesterol và chất độc ra khỏi cơ thể. Rau quả còn chống stress và tăng sự minh mẫn. Rau cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế của người dân. Hàng năm, ngoài việc cung cấp cho thị trường trong nước thì rau của chúng ta cũng đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới thu về một lượng ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay người trồng rau đã lạm dụng quá nhiều hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) để phun tưới cho rau quả với mục đích lợi nhuận. Dư lượng HCBVTV tồn dư trong rau quả có thể gây ngộ độc cấp tính hoặc trường diễn cho người tiêu dùng. Ngộ độc thực phẩm do tồn dư HCBVTV đang là một vấn đề bức xúc. Đã có nhiều vụ ngộ độc xảy ra do ăn rau quả bị nhiễm HCBVTV như rau cải, bắp cải, dưa lê, dưa chuột, cà chua và gần đây là rau muống. Hơn thế nữa việc sử dụng quá mức thuốc trừ sâu để phòng trừ sâu hại đã đem lại những mặt trái của nó, làm suy giảm nghiêm trọng đa dạng sinh học trong nông nghiệp dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng nguồn thiên địch tự nhiên, xuất hiện một số dịch hại mới, sâu hại trở nên khó kiểm soát hơn đã gây thiệt hại to lớn cả về sản lượng lẫn chất lượng thực phẩm. Vì vậy, phát triển nông nghiệp phải đi đôi với bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp bền vững, giảm thiểu việc dùng thuốc hóa học trên cây rau là vấn đề cấp bách hiện nay. Được sự đồng ý của khoa Công nghệ Sinh Học và Kỹ Thuật Môi Trường, trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp.HCM và dưới sự hướng dẫn chi tiết, tận tình, chu đáo của TS.Nguyễn Thị Hai đề tài: “Khảo sát ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc trừ sâu đến các loài chân khớp trên cây dưa leo tại huyện Củ Chi – Tp.HCM” đã được tiến hành góp phần cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp quản lý sâu hại trên cây dưa leo, bảo tồn và phát huy được vai trò của thiên địch một cách hiệu quả, góp phần giảm thiểu việc dùng thuốc hóa học trừ sâu trên cây dưa leo.

doc76 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2032 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc trừ sâu đến các loài chân khớp trên cây dưa leo tại huyện Củ Chi – Tp.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1 MỞ ĐẦU Đặt vấn đề Rau là một thực phẩm không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Cùng với thức ăn động vật, rau cung cấp những dinh dưỡng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người. Tục ngữ có câu: “Cơm không rau như đau không thuốc”. Rau cung cấp cho cơ thể những chất dinh dưỡng, đặc biệt là các vitamin, các axít hữu cơ, chất khoáng… Việc tăng cường rau quả vào khẩu phần ăn sẽ giúp cải thiện tình trạng sức khỏe như giảm huyết áp, tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể và phòng bệnh tật. Các loại rau, củ, quả quen thuộc cũng chính là các vị thuốc thần diệu. Ngoài ra trong rau quả còn có các men ảnh hưởng tốt tới quá trình tiêu hóa. Xenluloza của rau quả có vai trò sinh lý lớn vì cấu trúc của nó mịn màng. Trong rau, xenluloza ở dưới dạng liên kết với các chất pectin tạo thành phức hợp pectin - xenluloza. Phức chất này kích thích mạnh chức năng nhu động ruột và tiết dịch ruột. Xenluloza của rau còn có khả năng bài xuất cholesterol và chất độc ra khỏi cơ thể. Rau quả còn chống stress và tăng sự minh mẫn. Rau cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế của người dân. Hàng năm, ngoài việc cung cấp cho thị trường trong nước thì rau của chúng ta cũng đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới thu về một lượng ngoại tệ rất lớn. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay người trồng rau đã lạm dụng quá nhiều hóa chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) để phun tưới cho rau quả với mục đích lợi nhuận. Dư lượng HCBVTV tồn dư trong rau quả có thể gây ngộ độc cấp tính hoặc trường diễn cho người tiêu dùng. Ngộ độc thực phẩm do tồn dư HCBVTV đang là một vấn đề bức xúc. Đã có nhiều vụ ngộ độc xảy ra do ăn rau quả bị nhiễm HCBVTV như rau cải, bắp cải, dưa lê, dưa chuột, cà chua và gần đây là rau muống. Hơn thế nữa việc sử dụng quá mức thuốc trừ sâu để phòng trừ sâu hại đã đem lại những mặt trái của nó, làm suy giảm nghiêm trọng đa dạng sinh học trong nông nghiệp dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng nguồn thiên địch tự nhiên, xuất hiện một số dịch hại mới, sâu hại trở nên khó kiểm soát hơn đã gây thiệt hại to lớn cả về sản lượng lẫn chất lượng thực phẩm. Vì vậy, phát triển nông nghiệp phải đi đôi với bảo tồn đa dạng sinh học nông nghiệp, xây dựng nền nông nghiệp bền vững, giảm thiểu việc dùng thuốc hóa học trên cây rau là vấn đề cấp bách hiện nay. Được sự đồng ý của khoa Công nghệ Sinh Học và Kỹ Thuật Môi Trường, trường Đại Học Kỹ Thuật Công Nghệ Tp.HCM và dưới sự hướng dẫn chi tiết, tận tình, chu đáo của TS.Nguyễn Thị Hai đề tài: “Khảo sát ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc trừ sâu đến các loài chân khớp trên cây dưa leo tại huyện Củ Chi – Tp.HCM” đã được tiến hành góp phần cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng các biện pháp quản lý sâu hại trên cây dưa leo, bảo tồn và phát huy được vai trò của thiên địch một cách hiệu quả, góp phần giảm thiểu việc dùng thuốc hóa học trừ sâu trên cây dưa leo. Mục đích yêu cầu Cung cấp số liệu về sự đa dạng của thành phần sâu hại và thiên địch trên cây dưa leo tại vườn sản xuất theo phương pháp an toàn (phun thuốc ít) và vườn sản xuất theo phuong pháp truyền thống (phun thuốc nhiều) ở huyện Củ Chi để xác định ảnh hưởng của thuốc trừ sâu đến các hệ chân khớp từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp bảo tồn các loài côn trùng có ích phục vụ cho công tác sản xuất rau an toàn. Nội dung nghiên cứu Điều tra tình hình sử dụng thuốc hóa học trên cây dưa leo tại địa bàn huyện Củ Chi - TP.HCM. Điều tra sự đa dạng thành phần sâu hại và thiên địch trên cây dưa leo canh tác theo phương pháp truyền thống và phương pháp an toàn tại huyện Củ Chi – Tp.HCM. Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của việc sử dụng thuốc hóa học đến sự đa dạng sinh học hệ chân khớp và nhện trên vườn dưa leo. 1.4. Giới hạn đề tài Thời gian: đề tài thực hiện từ tháng 11 năm 2010 đến tháng 02 năm 2011. Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu côn trùng thiên địch và sâu hại trên vườn dưa leo ở xã An Nhơn Tây, huyện Củ Chi, Tp.HCM. Chương 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Khái niệm đa dạng sinh học Theo Công ước Đa dạng sinh học, khái niệm "Đa dạng sinh học" (biodiversity, biological diversity) có nghĩa là sự khác nhau giữa các sinh vật sống ở tất cả mọi nơi, bao gồm: các hệ sinh thái trên cạn, trong đại dương và các hệ sinh thái thuỷ vực khác, cũng như các phức hệ sinh thái mà các sinh vật là một thành phần,...; thuật ngữ này bao hàm sự khác nhau trong một loài, giữa các loài và giữa các hệ sinh thái. 2.1.1. Đa dạng loài Đa dạng loài là tất cả sự khác biệt trong một hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối với quần thể của các loài khác nhau. Mức độ loài thường được coi là một mức cố nhiên được dùng khi xem xét sự đa dạng của tất cả các sinh vật. Loài cũng là yếu tố cơ bản của cơ chế tiến hoá, sự hình thành cũng như sự tuyệt chủng của loài là tác nhân chính chi phối đa dạng sinh học. Khái niệm  loài rất khác nhau giữa các nhóm sinh vật. Hơn nữa, số lượng các loài chỉ đơn thuần cho biết một phần về đa dạng sinh học. Một loài càng có nhiều khác biệt với các loài khác (ví dụ, có một vị trí cô lập trong hệ thống phân loại), thì loài đó càng có đóng góp nhiều đối với mọi mức độ của đa dạng sinh học toàn cầu. Tầm quan trọng về mặt sinh thái học của một loài có thể có ảnh hưởng trực tiếp đến cấu trúc quần xã, và do đó ảnh hưởng đến đa dạng sinh học. Ví dụ, một loài cây của rừng mưa nhiệt đới là nơi cư trú của một hệ động vật không xương sống bản địa với một trăm loài, hiển nhiên đóng góp đối với việc duy trì đa dạng sinh học toàn cầu là lớn hơn so với một thực vật núi cao châu Âu không có một loài sinh vật nào phụ thuộc vào. 2.1.2. Đa dạng di truyền Đa dạng di truyền là sự đa dạng về thành phần gen giữa các cá thể trong cùng một loài và giữa các loài khác nhau; là sự đa dạng về gen có thể di truyền được trong một quần thể hoặc giữa các quần thể. Các dạng khác của đa dạng di truyền có thể được xác định tại mọi cấp độ tổ chức, bao gồm cả số lượng DNA trong mỗi tế bào, cũng như số lượng và cấu trúc nhiễm sắc thể. Tập hợp các biến dị gen trong một quần thể giao phối cùng loài có được nhờ chọn lọc. Mức độ sống sót của các biến dị khác nhau dẫn đến tần suất khác nhau của các gen trong tập hợp gen. Điều này cũng tương tự trong tiến hoá của quần thể. Như vậy, tầm quan trọng của biến dị gen là rất rõ ràng: nó tạo ra sự thay đổi tiến hoá tự nhiên cũng như chọn lọc nhân tạo . 2.1.3. Đa dạng hệ sinh thái Đa dạng hệ sinh thái là tất cả mọi sinh cảnh, mọi quần xã sinh vật và mọi quá trình sinh thái khác nhau, cũng như sự biến đổi trong từng hệ sinh thái. Một hệ sinh thái khác nhiều so với một loài hay một gen ở chỗ chúng còn bao gồm cả các thành phần vô sinh, chẳng hạn đá mẹ và khí hậu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá qua tính đa dạng các loài thành viên. Nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài. Trong trường hợp thứ nhất, các loài khác nhau càng phong phú, thì nói chung vùng hoặc nơi cư trú càng đa dạng. Trong trường hợp thứ hai, người ta quan tâm tới số lượng loài trong các lớp kích thước khác nhau, tại các dải dinh dưỡng khác nhau, hoặc trong các nhóm phân loại khác nhau. Do đó một hệ sinh thái giả thiết chỉ có một vài loài thực vật sẽ kém đa dạng hơn vùng có cùng số lượng loài nhưng bao gồm cả động vật ăn cỏ và động vật ăn thịt. 2.2. Thực trạng ngành rau của Việt Nam Diện tích, năng suất, sản lượng Tính đến năm 2005, tổng diện tích trồng rau các loại trên cả nước đạt 635,8 nghìn ha, sản lượng 9640,3 ngàn tấn; so với năm 1999 diện tích tăng 175,5 ngàn ha (tốc độ tăng bình quân 3,61%/năm), sản lượng tăng 3071,5 ngàn tấn (tốc độ tăng bình quân 7,55%/năm). Sản xuất rau theo hướng nông nghiệp công nghệ cao đã bước đầu được hình thành như: sản xuất trong nhà màn, nhà lưới chống côn trùng, sản xuất trong nhà plastic không cố định để hạn chế tác hại của các yếu tố môi trường bất lợi, trồng rau bằng kỹ thuật thuỷ canh, màng dinh dưỡng, nhân giống và sản xuất các loại cây quí hiếm, năng suất cao bằng công nghệ nhà kính của Israel có điều khiển kiểm soát các yếu tố môi trường. Bảng 2.1: Diện tích, năng suất, sản lượng rau phân theo vùng TT Vùng Diện tích (1000 ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (1000 tấn) 1999 2005 1999 2005 1999 2005 Cả nước 459,6 635,1 126 151,8 5792,2 9640,3 1 ĐBSH 126,7 158,6 157 179,9 1988,9 2852,8 2 TDMNBB 60,7 91,1 105,1 110,6 637,8 1008 3 BTB 52,7 68,5 81,2 97,8 427,8 670,2 4 DHNTB 30,9 44 109 140,1 336,7 616,4 5 TNB 25,1 49 177,5 201,7 445,6 988,2 6 ĐNB 64,2 59,6 94,2 129,5 604,9 772,1 7 ĐBSCL 99,3 164,3 136 166,3 1350,5 2732,6 Ghi chú: ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng TDMNBB : Trung du Miền núi Bắc Bộ BTB : Bắc Trung Bộ DHNTB : Duyên hải Nam Trung Bộ TNB : Tây Nam Bộ ĐNB : Đông Nam Bộ ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long Vùng sản xuất rau lớn nhất là ĐBSH (chiếm 24,9% về diện tích và 29,6% sản lượng rau cả nước), tiếp đến vùng ĐBSCL (chiếm 25,9% về diện tích và 28,3% sản lượng rau của cả nước). Nhiều vùng rau an toàn (RAT) đã được hình thành đem lại thu nhập cao và an toàn cho người sử dụng đang được nhiều địa phương chú trọng đầu tư xây dựng mới và mở rộng: Hà Nội, Hải Phòng (An Lão), TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng (Đà Lạt)… Ở TP. Hồ Chí Minh hiện đã có 1.663 ha sản xuất rau an toàn với sản lượng đạt khoảng 30.000 tấn/năm. Hiện nay thành phố đang xây dựng khu nông nghiệp công nghệ cao trên 100 ha tại huyện Củ Chi, áp dụng công nghệ trồng rau bằng kỹ thuật thuỷ canh, màng dinh dưỡng và canh tác trên giá thể không đất, nuôi cấy mô cho rau, hoa, cây cảnh, cây ăn trái… ứng dụng chất điều hoà sinh trưởng thực vật, công nghệ gen, sản xuất nấm và các chế phẩm vi sinh. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm rau Hiện nước ta có khoảng 60 cơ sở chế biến rau quả với tổng năng suất 290.000 tấn sản phẩm/năm, trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 50%, doanh nghiệp quốc doanh 16% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 34%, ngoài ra còn hàng chục ngàn hộ gia đình làm chế biến rau quả ở qui mô nhỏ. Hiện nay tiêu thụ rau chủ yếu cho tiêu dùng trong nước, sản phẩm rau cho chế biến chiếm tỷ lệ không đáng kể, năm 2005 rau quả xuất khẩu chỉ đạt 235 triệu USD, trong đó phần lớn là từ quả chế biến. Sản phẩm rau cho xuất khẩu chủng loại rất hạn chế, hiện chỉ một số loại như cà chua, dưa chuột, ngô ngọt, ngô rau, ớt, dưa hấu ở dạng sấy khô, đóng lọ, đóng hộp, muối mặn, cô đặc, đông lạnh và một số xuất ở dạng tươi. Tiêu thụ trong nước không nhiều và giá cả thất thường phụ thuộc vào lượng hàng nông sản cung cấp trong khi mức tiêu thụ hạn chế dẫn đến tình trạng một mặt hàng nông sản có năm rất đắt, có năm lại rất rẻ ảnh hưởng đến tính bền vững trong sản xuất. Sản phẩm rau trở thành hàng hoá ngay sau khi thu hoạch và nó rất dễ bị hư hỏng trong khi hầu hết các vùng sản xuất hàng hoá lớn chưa có nơi sơ chế và kho bảo quản tạm thời. Một số hạn chế trong sản xuất rau hiện nay Công tác qui hoạch vùng sản xuất rau hàng hoá chưa rõ trong phạm vi toàn quốc và từng vùng sinh thái, các địa phương lúng túng trong hoạch định lâu dài chiến lược phát triển các loại cây trồng nói chung và cây rau hoa nói riêng, trong đó có chiến lược về diện tích sản xuất. Thị trường tiêu thụ không ổn định kể cả thị trường trong nước và nước ngoài do sản xuất của chúng ta không chủ động về số lượng và chất lượng sản phẩm. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm là vấn đề rất nan giải trong sản xuất rau hiện nay, qui trình sản xuất rau an toàn đã và đang được ban hành song việc tổ chức sản xuất và kiểm tra giám sát thực hiện qui trình còn kém, kết hợp với trình độ dân trí và tính tự giác thấp của người sản xuất đã cho ra các sản phẩm không an toàn, giảm sức cạnh tranh của nông sản. Sản xuất theo hợp đồng giữa người sản xuất và doanh nghiệp đã được hình thành ở nhiều vùng sản xuất hàng hoá song nhìn chung còn ít, việc chấp hành theo hợp đồng ký kết của cả người sản xuất và doanh nghiệp chưa nghiêm dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không thu mua sản phẩm theo hợp đồng hoặc dân không bán sản phẩm cho doanh nghiệp khi có sự biến động giá cả ngoài thị trường. 2.3. Tổng quan về cây dưa leo 2.3.1. Giới thiệu Tên tiếng anh: Cucumber Tên khoa học: Cucumis Sativus L Họ bầu bí : Cucurbitaceae Dưa leo là một cây trồng phổ biến trong họ bầu bí, là loại rau ăn quả thương mại quan trọng, nó được trồng lâu đời trên thế giới và trở thành thực phẩm của nhiều nước. Những nước dẫn đầu về diện tích gieo trồng và năng suất là : Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan, Ai Cập và Tây Ban Nha. Dưa leo chứa nhiều loại vitamin (A, C, B1, B2) và chất khoáng (canxi, photpho…) cần thiết cho cơ thể người. Dưa leo được sử dụng để ăn sống, xào nấu hoặc muối dưa là mặt hàng xuất khẩu quan trọng ở nhiều nước và nước ta (vùng chuyên canh). Ngoài ra dưa leo có tác dụng giải khát, lọc máu, lợi tiểu và an thần nhẹ, trị ngứa và làm đẹp da. 2.3.2. Lợi ích cây dưa leo Thành phần dinh dưỡng Giá trị dinh dưỡng trong 100g: Đạm 0,6g, đường 1,2g, chất béo 0,1g, chất xơ 0,7g, nước 95g, năng lượng 10kcal, các vitamin và khoáng chất, kali (150mg/100g), phốt pho (23mg/100g), canxi (19mg/100g), natri (13mg/100g), sắt (1mg/100g), vitamin B, C, tiền vitamin A (có trong vỏ dưa), vitamin E (có trong vỏ dưa). Giải khát, thanh nhiệt Nhờ chứa một hàm lượng nước rất cao và vị hơi đắng, dưa leo có tác dụng giải khát mà không ai có thể phủ nhận được. Chính vì thế, loại quả này thường xuyên xuất hiện trong các bữa ăn với hình thức cắt lát, chẻ miếng. Tuy nhiên, nếu ăn sống nhiều, dưa leo có thể gây khó tiêu. Ngoài tác dụng giải khát, dưa leo còn có tác dụng lọc máu, hòa tan axit uric và urat, lợi tiểu và gây ngủ nhẹ. Do hàm lượng canxi cao nên dưa leo có tác dụng tốt đối với trẻ em chậm lớn và người già. Người bị bệnh tim mạch, cao huyết áp, dùng loại quả này cũng rất tốt nhờ lượng kali dồi dào. Thải độc, lợi tiểu Là cơ quan quan trọng bậc nhất trong quá trình bài trừ độc tố, thận có chức năng lọc những chất độc trong máu và những cặn bã sinh ra sau quá trình phân giải các protein và bài tiết chúng ra ngoài qua nước tiểu. Với tác dụng lợi tiểu, dưa leo có thể làm sạch niệu đạo, giúp thận thải ra ngoài những chất độc trong ống tiểu. Ngoài ra, dưa leo còn có tác dụng hỗ trợ giải độc cho phổi, gan và dạ dày. Do đặc điểm giàu kali và ít natri, dưa leo kích thích sự lưu thông nước trong cơ thể. Ngoài ra, nó còn có tác dụng bù đắp lượng khoáng cho cơ thể với tỷ lệ cực kỳ thích hợp. Thực phẩm giảm cân Nhờ tác dụng ức chế sự hình thành mỡ trong cơ thể, dưa leo rất có lợi cho người mập muốn giảm cân. Nó có khả năng khống chế đường chuyển hóa thành mỡ, đồng thời giúp tăng cường hoạt động của dạ dày, ruột, không làm tăng năng lượng cho cơ thể nhờ chứa nhiều chất xơ. Ngoài ra, dưa leo còn giúp giảm lượng cholesterol và chống khối u. Hỗ trợ điều trị AIDS Qua thực nghiệm hơn 10 năm, các nhà khoa học đã phát hiện ra một số loại thực phẩm thiên nhiên có tác dụng kháng HIV. Ở đầu xanh thẫm của quả dưa có chứa chất cucurbitacin, có thể kích thích công năng miễn dịch của cơ thể, có tác dụng chống ung thư. Chính vì vậy, dưa leo thích hợp với bệnh nhân có u nhọt, có tác dụng hỗ trợ trị liệu bệnh AIDS.  Các nhà nghiên cứu cho rằng, với khả năng trên, những người bị nhiễm HIV ăn dưa leo sẽ rất có lợi. Dưa leo còn được các nhà nghiên cứu của trường Đại học bang Kansas ở Mỹ dùng để chữa trị bệnh máu trắng. Mỹ phẩm thiên nhiên Nhiều hãng mỹ phẩm hiện nay đã sử dụng chiết xuất từ dưa leo để làm mát và tái tạo da, đặc biệt đối với da đầu. Nước dưa leo có thể được coi là loại nước tonic tuyệt hảo và giúp se khít lỗ chân lông. Nếu da bạn bị cháy khi tắm nắng, hãy nghiền nát dưa leo và đắp vào chỗ bỏng rát. Những khoảng da bị rộp, bong sẽ hết liền. Dưa leo nghiền lấy nước hoặc thái thành lát mỏng xoa lên mặt, lên tay, chân, có tác dụng làm da nhẵn, mịn màng, tẩy tàn nhang, xoá nhẹ những nếp nhăn. Ngoài ra, người ta còn chế ra các loại nước hỗn hợp gồm dưa leo với một số rau quả khác như táo, chanh, cà rốt... để bôi đắp lên da, cho làn da đẹp, mịn màng. 2.3.3. Đặc tính sinh học Rễ: Bộ rễ dưa phát triển rất yếu, rễ chỉ phân bố ở tầng đất mặt 30 - 40 cm. Thân: Thân thảo hằng niên, thân dài, có nhiều tua cuốn để bám khi bò. Chiều dài thân tùy điều kiện canh tác và giống, các giống canh tác ngoài đồng thường chỉ dài từ 0.5 - 2,5 m. Thân trên lá mầm và lóng thân trong điều kiện ẩm độ cao có thể thành lập nhiều rễ bất định. Thân tròn hay có góc cạnh, có lông ít nhiều tùy giống. Thân chánh thường phân nhánh; cũng có nhiều dạng dưa leo hoàn toàn không thành lập nhánh ngang. Sự phân nhánh của dưa còn chịu ảnh hưởng của nhiệt độ ban đêm. Lá: Lá đơn, to mọc cách trên thân, dạng lá hơi tam giác với cuống lá rất dài 5 - 15 cm; rìa lá nguyên hay có răng cưa. Lá trên cùng cây cũng có kích thước và hình dáng thay đổi. Hoa: Đơn tính cùng cây hay khác cây. Hoa cái mọc ở nách lá thành đôi hay riêng biệt; hoa đực mọc thành cụm từ 5 - 7 hoa; dưa leo cũng có hoa lưỡng tính. có giống trên cây có cả 3 loại hoa và có giống chỉ có 1 loại hoa trên cây. Hoa có màu vàng, thụ phấn nhờ côn trùng, bầu noãn của hoa cái phát triển rất nhanh ngay trước khi hoa nở. Các giống dưa leo trồng ở vùng ĐBSCL thường ra hoa sớm, bắt đầu ở nách lá thứ 4 - 5 trên thân chính, sau đó hoa nở liên tục trên thân chính và nhánh. Sự biến dị về tính trạng giới tính ở dưa leo rất rộng, đó là đặc tính thích nghi mạnh của cây trong điều kiện môi trường. Nói chung, điều kiện ngày dài, nhiệt độ cao và các điều kiện bất lợi khác làm cho cây cho nhiều hoa đực. Ngoài ra, tỉa nhánh, sử dụng kích thích sinh trưởng và chế độ phân bón có thể ảnh hưởng đến sự biến đổi giới tính của cây. Các dạng cây có giới tính khác nhau ở dưa leo được nghiên cứu và tạo lập để sữ dụng trong chọn tạo giống lai. Trái, hạt: Lúc còn non có gai xù xì, khi trái lớn gai từ từ mất đi. Trái từ khi hình thành đến khi thu hoạch có màu xanh đậm, xanh nhạt, có hay không có hoa văn (sọc, vệt, chấm), khi chín trái chuyển sang màu vàng sậm, nâu hay trắng xanh. Trái tăng trưởng rất nhanh tùy theo giống, có thể thu trái từ 8 - 10 ngày sau khi hoa nở. Phẩm chất trái không chỉ tùy thuộc vào thành phần các chất dinh dưỡng trong trái mà còn tùy thuộc vào độ chặc của thịt trái, độ lớn của ruột trái và hương vị trái. Trái chứa hạt màu trắng ngà, trung bình có từ 200 - 500 hạt/trái. Cây ra hoa Cây ra hoa rộ Cây ra trái rộ Hình 2.1: Hình ảnh về cây dưa leo 2.3.4. Điều kiện sinh trưởng Dưa leo thuộc nhóm ưa nhiệt, nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của dưa leo là 20 – 300C, nhiệt độ cao hơn sẽ làm cây ngừng sinh trưởng và nếu kéo dài ở nhiệt độ 35 – 400C cây sẽ chết. Dưa leo ưa ánh sáng ngày ngắn, cây thích hợp sinh trưởng và phát dục ở độ dài chiếu sáng 10 – 12 giờ/ngày. Vùng ĐBSCL dưa leo dễ dàng ra hoa trái quanh năm. Yêu cầu về độ ẩm đất của dưa leo rất lớn 85 – 95% đứng đầu họ bầu bí do bộ rễ dưa leo chỉ phát triển ở tầng đất mặt nên yêu cầu nước rất cao, nhất là thời kỳ phát triển trái. Dưa leo ở các thời kỳ khác nhau yêu cầu về lượng nước khác nhau : hạt nẩy mầm yêu cầu lượng nước 50% trọng lượng hạt, thời kỳ cây con thân, lá và bộ rễ phát triển còn yếu lượng nước tiêu hao ít nên yêu cầu lượng nước có mức độ, thời kỳ ra hoa để thu quả yêu cầu nước rất lớn. Dưa chịu hạn rất yếu, thiếu nước cây sinh trưởng kém và tích luỹ lượng cucurbitaxina là chất gây đắng trong quả (Tạ Thị Thu Cúc, 1979). Đất trồng dưa leo có yêu cầu nghiêm khắc do bộ rễ phát triển yếu, sức hấp thụ của rễ lại kém, nếu gặp hạn hay úng hoặc nồng độ phân cao dễ làm bộ rễ dưa vàng khô thâm đen, vì thế đất trồng phải có thành phần cơ giới nhẹ như cát pha, đất thịt nhẹ có nhiều chất hữu cơ, pH từ 5,5 – 6,8. Về nhu cầu dinh dưỡng dưa leo yêu cầu không nhiều, theo Tạ Thị Thu Cúc, 1979 để đạt năng suất khoảng 30 tấn/ha yêu cầu lượng phân nguyên chất N-P: 20-5, K : 20 là 170 kg với tỷ lệ : 51 + 41 + 78. Tuy nhiên đối với các giống lai cho năng suất cao hiện nay thì yêu cầu phân bón cũng cao hơn. Về hiệu suất sử dụng phân, dưa leo cần nhất là kali đến đạm, sau cùng là lân. Dưa leo có đặc điểm là phản ứng nhanh chống với dinh dưỡng tr