Đề tài Khảo sát dự định sử dụng của nhà đầu tư cá nhân đối với hình thức giao dịch chứng khoán trực tuyến

Khoảng hơn một năm trở lại đây, thị trường chứng khoán đã trở thành đề tài thời sự nhận được sự quan tâm lớn của nhiều tầng lớp nhân dân tại Việt Nam vì những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Ngày 23/8/2007, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM đã công bố lộ trình phát triển công nghệ thông tin tiến tới giao dịch trực tuyến vào quý I/2008 nhằm đem đến một giải pháp hoạt động hiệu quả và tiết kiệm đối với một thị trường có quy mô giao dịch ngày càng lớn.

doc110 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát dự định sử dụng của nhà đầu tư cá nhân đối với hình thức giao dịch chứng khoán trực tuyến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN Luận văn tốt nghiệp là thành quả của một quá trình làm việc lâu dài. Trong suốt khoảng thời gian khó khăn vừa qua, tôi may mắn nhận được rất nhiều sự yêu thương, giúp đỡ của gia đình, thầy cô và bạn bè… Trước tiên, con xin cảm ơn ông bà, ba mẹ và những người thân yêu trong gia đình đã luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để con được học tập thật tốt. Con cảm ơn Chúa đã luôn yêu thương, nâng đỡ tinh thần con mỗi khi con trở nên yếu đuối, nản lòng trước khó khăn. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với Quý Thầy Cô khoa Quản lý Công nghiệp trường Đại học Bách khoa TP.HCM, những người đã trang bị nền tảng lý thuyết cho tôi trong suốt những năm học Đại học giúp tôi có thể thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Tôi xin chân thành cảm ơn Cô Phạm Ngọc Thúy, người đã cho tôi những lời nhận xét và hướng dẫn rất chân tình, giúp tôi giải quyết và vượt qua những khó khăn gặp phải trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Cảm ơn cô đã chỉ bảo cho em rất nhiều điều bổ ích trong cách tư duy và thực hiện công việc, những điều thực sự quan trọng cho chặng đường tiếp theo của em. Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những người bạn thân thiết, đã giúp đỡ, động viên tôi rất nhiều trong suốt những năm học tập tại trường Đại học Bách Khoa. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn! Tháng 12 năm 2007 Sinh viên Văn Trần Diễm Thùy TÓM TẮT ĐỀ TÀI Khoảng hơn một năm trở lại đây, thị trường chứng khoán đã trở thành đề tài thời sự nhận được sự quan tâm lớn của nhiều tầng lớp nhân dân tại Việt Nam vì những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Ngày 23/8/2007, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM đã công bố lộ trình phát triển công nghệ thông tin tiến tới giao dịch trực tuyến vào quý I/2008 nhằm đem đến một giải pháp hoạt động hiệu quả và tiết kiệm đối với một thị trường có quy mô giao dịch ngày càng lớn. Đề tài “Khảo sát dự định sử dụng của nhà đầu tư cá nhân đối với hình thức giao dịch chứng khoán trực tuyến” được thực hiện với mục đích xác định các yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng của nhà đầu tư (NĐT) cá nhân đối với giao dịch chứng khoán trực tuyến (GDCKTT) nhằm giúp các nhà quản lý cũng như các công ty chứng khoán có cái nhìn rõ hơn về nhận thức của NĐT đối với phương thức giao dịch còn khá mới mẻ này để từ đó có những quyết định hợp lý cho việc phát triển GDCKTT trong tương lai. Đề tài sử dụng 4 mô hình lý thuyết: Mô hình chấp nhận công nghệ – TAM, Lý thuyết hợp nhất về sự chấp nhận và sử dụng công nghệ (Unified Theory of Acceptance and Use of Technology - UTAUT), Nghiên cứu về phổ biến sự đổi mới (Diffusion of Innovations), Mô hình chấp nhận sử dụng thương mại điện tử (e-CAM) để làm cơ sở thiết lập mô hình nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng được sử dụng để thực hiện đề tài. Nghiên cứu định tính sử dụng kỹ thuật phỏng vấn cá nhân để bổ sung vào mô hình lý thuyết những yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng GDCKTT của NĐT làm cơ sở để thiết kế nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu định lượng dùng kỹ thuật phỏng vấn NĐT cá nhân thông qua bản câu hỏi với kích thước mẫu n=167. Phần mềm SPSS 11.5 được sử dụng để phân tích dữ liệu thu thập được với các công cụ: thống kê mô tả, phân tích nhân tố và kiểm tra độ tin cậy Cronbach Alpha để kiểm định bộ thang đo, phân tích phương sai một nhân tố để kiểm định sự khác biệt và cuối cùng phân tích hồi quy để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng GDCKTT của NĐT cá nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong các yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng, NĐT cá nhân quan tâm nhất đến tính dễ sử dụng của GDCKTT, kế đến là những lợi ích quan trọng mà hình thức này đem lại như thuận tiện về không gian, tiết kiệm thời gian, cũng như việc không phải chen chúc, chờ đợi mua bán tại các sàn giao dịch đông người của các công ty chứng khoán. Đề tài có một số hạn chế nhất định nhưng kết quả nghiên cứu vẫn có thể được sử dụng như một nguồn tham khảo cho các nhà quản lý và các công ty chứng khoán khi xây dựng kế hoạch phát triển thị trường chứng khoán trong tương lai. MỤC LỤC Đề mục Trang Nhiệm vụ luận văn Phụ lục 1: Bản câu hỏi 77 Phụ lục 2: Bảng mã hóa dữ liệu 81 Phụ lục 3: Các kết quả thống kê 82 DANH SÁCH HÌNH VẼ Hình 2.1: Đường đi của lệnh trong giao dịch tại sàn và qua điện thoại 5 Hình 2.2: Màn hình đăng nhập vào dịch vụ của CTCK Vietcombank 6 Hình 2.3: Màn hình đặt lệnh GDCKTT của CTCK Vietcombank 6 Hình 2.4: Màn hình quản lý danh mục đầu tư của CTCK Vietcombank 7 Hình 2.5: Màn hình đặt lệnh mua của CTCK Vietcombank 7 Hình 2.6: Đường đi của lệnh trong giao dịch online và qua tin nhắn SMS 9 Hình 2.7: Đường đi của lệnh trong giao dịch không sàn 11 Hình 2.8: Đường đi của lệnh trong GDCKTT 12 Hình 3.1: Mô hình TAM ban đầu 15 Hình 3.2: Mô hình TAM hiện nay 15 Hình 3.3: Mô hình UTAUT 17 Hình 3.4: Phân loại khách hàng theo thời gian chấp nhận SP mới 25 Hình 3.5: Mô hình chấp nhận sử dụng thương mại điện tử e-CAM 27 Hình 3.6: Mô hình nghiên cứu 30 Hình 4.1: Quy trình thực hiện nghiên cứu 32 Hình 5.1: Biểu đồ cơ cấu Giới tính của mẫu 50 Hình 5.2: Biểu đồ cơ cấu Độ tuổi của mẫu 50 Hình 5.3: Biểu đồ cơ cấu Trình độ học vấn của mẫu 51 Hình 5.4: Biểu đồ cơ cấu Điều kiện truy cập Internet của mẫu 52 Hình 5.5: Biểu đồ cơ cấu Khả năng sử dụng máy tính của mẫu 53 Hình 5.6: Mô hình nghiên cứu hiệu chỉnh 61 DANH SÁCH BẢNG BIỂU Bảng 3.1: Triển vọng thực hiện: Cấu trúc, Định nghĩa và Thang đo 18 Bảng 3.2: Triển vọng nỗ lực: Cấu trúc, Định nghĩa và Thang đo 19 Bảng 3.3: Ảnh hưởng xã hội: Cấu trúc, Định nghĩa và Thang đo 20 Bảng 3.4: Điều kiện thuận lợi: Cấu trúc, Định nghĩa và Thang đo 21 Bảng 3.5: Các loại rủi ro liên quan đến sản phẩm dịch vụ 27 Bảng 4.1: Thang đo dự kiến yếu tố Tính cách hướng tới sự đổi mới 34 Bảng 4.2: Thang đo dự kiến yếu tố Nhận thức tính hữu ích 34 Bảng 4.3: Thang đo dự kiến yếu tố Nhận thức tính dễ sử dụng 36 Bảng 4.4: Thang đo dự kiến yếu tố Aûnh hưởng xã hội 36 Bảng 4.5: Thang đo dự kiến yếu tố Nhận thức rủi ro liên quan đến giao dịch trực tuyến 37 Bảng 4.6: Thang đo dự kiến các yếu tố cá nhân 37 Bảng 4.7: Bản câu hỏi và kết quả khảo sát định tính 39 Bảng 4.8: Các biến và thang đo đưa vào khảo sát định lượng 43 Bảng 4.9: Các phương pháp chọn mẫu 47 Bảng 5.1: Cơ cấu Giới tính và Độ tuổi của mẫu 51 Bảng 5.2: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Tính cách hướng tới sự đổi mới” 53 Bảng 5.3: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Nhận thức tính hữu ích” 54 Bảng 5.4: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Nhận thức tính dễ sử dụng” 54 Bảng 5.5: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Ảnh hưởng xã hội” 55 Bảng 5.6: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Nhận thức rủi ro liên quan đến GDTT” 55 Bảng 5.7: Mức độ đồng ý của NĐT đối với nhóm yếu tố “Dự định sử dụng” 55 Bảng 5.8: Thống kê câu trả lời của NĐT đối với nhóm yếu tố “Dự định sử dụng” 56 Bảng 5.9: Thống kê câu trả lời của NĐT đối với nhóm yếu tố “Dự định sử dụng sau khi cân nhắc rủi ro”. 56 Bảng 5.10: KMO and Bartlett's Test 57 Bảng 5.11: Ma trận phân tích nhân tố đối với biến độc lập 57 Bảng 5.12: Chia nhóm các yếu tố Nhận thức tính hữu ích 58 Bảng 5.13: KMO and Bartlett's Test 59 Bảng 5.14: Ma trận phân tích nhân tố đối với biến phụ thuộc 59 Bảng 5.15: Bảng tổng hợp phân tích độ tin cậy Cronbach Alpha 60 Bảng 5.16: Thống kê giá trị trung bình của “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “tuổi” 61 Bảng 5.17: Thống kê giá trị trung bình của “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “trình độ học vấn” 62 Bảng 5.18: Thống kê giá trị trung bình của “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “điều kiện truy cập Internet” 63 Bảng 5.19: Thống kê giá trị trung bình của “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “khả năng sử dụng máy tính” 63 Bảng 5.20: Thống kê giá trị trung bình của các yếu tố trong thang đo 64 Bảng 5.21: Thống kê giá trị trung bình của các nhân tố ảnh hưởng đến “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “tuổi” 64 Bảng 5.22: Thống kê giá trị trung bình của các nhân tố ảnh hưởng đến “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “trình độ học vấn” 65 Bảng 5.23: Thống kê giá trị trung bình của các nhân tố ảnh hưởng đến “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “điều kiện truy cập Internet” 66 Bảng 5.24: Thống kê giá trị trung bình của các nhân tố ảnh hưởng đến “Dự định sử dụng” trong từng nhóm “khả năng sử dụng máy tính” 67 Bảng 5.25: Phân tích hồi qui - Model Summary 68 Bảng 5.26: Phân tích hồi quy 69 CHƯƠNG 1 MỞ ĐẦU LÝ DO HÌNH THÀNH ĐỀ TÀI. Thị trường chứng khoán đã xuất hiện ở Hoa Kỳ vào những năm 1700. Khi ấy các broker ở Philadelphia, Pennsylvania và New York City thường tụ tập ở những công viên và quán cà phê để đấu giá các chứng khoán. Sở Giao dịch Chứng khoán New York cũng được khai sinh từ đó khi một nhóm các nhà môi giới cổ phiếu họp tại phố Wall để xây dựng một số nguyên tắc quản lý việc mua và bán cổ phiếu cũng như định ra kỳ hạn gặp nhau để giao dịch cổ phiếu và trái phiếu. Phương thức giao dịch thị trường ngoài trời này vẫn được tiếp tục cho đến đầu những năm 1900, khi việc kinh doanh diễn ra với một nhịp độ chóng mặt, với hàng triệu đô la được trao tay. Thị trường chứng khoán từ ngày đầu hình thành đến nay đã có nhiều sự thay đổi đáng kể. Việc giao dịch chứng khoán ngày nay được thực hiện theo cách mà nhà đầu tư (NĐT) không cần phải bước ra ngoài bởi vì cổ phiếu và trái phiếu có thể được giao dịch thông qua mạng lưới máy tính khổng lồ bao phủ toàn thế giới. Giao dịch chứng khoán trực tuyến (GDCKTT) đã mở ra một chương mới trong lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán toàn cầu, nó đáp ứng mong muốn thuận tiện và độc lập trong quản lý tài chính của các NĐT. GDCKTT càng phát triển và trở thành phổ biến trên thế giới hơn khi các NĐT ngày càng dành nhiều thời gian làm việc, giao tiếp và giải trí bằng máy vi tính. Tại Việt Nam, thị trường chứng khoán xuất hiện khá muộn so với thế giới với sự ra đời của 2 tổ chức đó là Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (tháng 7/2000, hiện nay là Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM) và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (tháng 3/2005). Khoảng hơn 1 năm trở lại đây, thị trường chứng khoán Việt Nam mới thực sự trở nên sôi động và có những bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất. Nếu như tại thị trường chứng khoán của các nước phát triển, hình thức GDCKTT không còn là một khái niệm mới mẻ thì tại Việt Nam, đa số các nhà đầu tư vẫn chỉ quen với hình thức giao dịch trực tiếp trên sàn hay giao dịch qua điện thoại. Cụ thể là chưa đầy 15% trong số 250.000 người mở tài khoản dùng Internet (nguồn: Vietnamnet). Ông Nguyễn Hữu Nam, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Gia Quyền (EPS) cho biết: “NĐT vẫn thích đến sàn nghe ngóng, trao đổi tin tức kinh nghiệm và đặt lệnh trực tiếp hơn”. GDCKTT tại Việt Nam vẫn còn hạn chế mặc dù đó là một phương thức giao dịch hiệu quả đối với những NĐT không có điều kiện đến sàn. Việc hạn chế GDCKTT đến từ nhiều nguyên nhân, ngoài thói quen của nhiều NĐT thích giao dịch tại sàn thì phải kể đến cơ sở hạ tầng của các công ty chứng khoán (CTCK) hiện nay vẫn chưa đủ mạnh để đáp ứng việc GDCKTT. Số lượng những công ty có cung cấp dịch vụ GDCKTT vẫn chưa nhiều, khoảng 10 trong số hơn 60 CTCK đang hoạt động tại Việt Nam (nguồn: thanhnien.com.vn). Bên cạnh đó, do bản chất dịch vụ GDCKTT của các CTCK cung cấp hiện nay chưa thực sự đúng nghĩa “trực tuyến” vì lệnh của NĐT phải trải qua giai đoạn nhập thủ công tại sàn, nên hình thức này mới chỉ áp dụng giới hạn với một số đối tượng khách hàng, hay với những giao dịch có mức giá trị tối thiểu nào đó nhằm tránh tình trạng nghẽn mạch cũng như dễ quản lý và bảo mật hơn trong điều kiện kỹ thuật hiện nay của các công ty này. Những lý do trên phần nào giải thích cho sự hạn chế của GDCKTT tại Việt Nam, tuy nhiên một khi GDCKTT đã là xu hướng phát triển chung của thế giới thì thị trường chứng khoán Việt Nam tất yếu sẽ phải thay đổi để thích nghi với xu hướng đó. Cụ thể là ngày 23/8/2007 Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HOSE) đã chính thức công bố lộ trình phát triển công nghệ thông tin của Sở bao gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn 1, từ tháng 10/2007 đến quý I/2008, sẽ thực hiện giao dịch không sàn. Giai đoạn 2, dự kiến từ quý I/2008, sẽ thực hiện giao dịch trực tuyến (GDTT) kết hợp hình thức sàn giao dịch. Điểm khác biệt của hình thức GDTT sẽ được triển khai là NĐT có thể đặt lệnh qua máy tính hay tin nhắn SMS và lệnh sẽ được chuyển thẳng vào hệ thống của HOSE. Trong tương lai, nếu GDCKTT được áp dụng hoàn toàn thì sẽ đem lại lợi ích rất lớn đối với cả 3 phía là HOSE, CTCK, NĐT và đó cũng là cách để thị trường chứng khoán Việt Nam thích ứng với thế giới. Hiện nay, bởi vì việc sử dụng GDCKTT vẫn còn được xem là hình thức giao dịch hiện đại, mới mẻ đối với thị trường chứng khoán nước ta, cho nên sẽ có những quan tâm, những nhận thức sử dụng khác nhau từ phía các NĐT đối với hình thức này. Trong đó, đối tượng NĐT cá nhân cần được chú trọng vì họ đến từ mọi tầng lớp nhân dân, mức độ sử dụng và hiểu biết về Internet không đồng đều, hơn nữa họ còn thiếu kinh nghiệm đối với hình thức GDTT nói chung so với 2 đối tượng còn lại trên thị trường chứng khoán là Tổ chức chuyên nghiệp trong nước và NĐT nước ngoài. Bên cạnh đó, từ khi chứng khoán trở thành một vấn đề thời sự nóng hổi tại Việt Nam, chúng ta đã quá quen thuộc với hình ảnh rất đông những NĐT cá nhân tập trung tại các sàn giao dịch vào các buổi sáng từ trước khi thị trường mở cửa, chen nhau lấy phiếu ghi lệnh, đặt lệnh rồi lại chăm chú theo dõi giá cổ phiếu trên bảng điện tử lớn, và GDCKTT thời gian trước đây dường như chỉ thu hút được sự quan tâm của giới nhân viên văn phòng vì họ có thể vừa làm việc trên máy tính tại công sở vừa thực hiện giao dịch. NĐT cá nhân nói chung đã sẵn sàng đón nhận hình thức GDCKTT chưa? Đó chính là lý do hình thành đề tài: “Khảo sát dự định sử dụng của nhà đầu tư cá nhân đối với hình thức giao dịch chứng khoán trực tuyến”. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Nhận dạng những yếu tố ảnh hưởng đến dự định sử dụng của NĐT cá nhân đối với hình thức GDCKTT trong tương lai. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI Nghiên cứu này có thể mang đến những lợi ích sau: Đối với nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chiến lược cho thị trường chứng khoán tại TP.HCM thì kết quả của nghiên cứu này sẽ cho họ một cái nhìn rõ hơn về nhận thức của NĐT cá nhân đối với GDCKTT. Qua đó, có thể xây dựng những chính sách, giải pháp thích hợp hơn để triển khai GDCKTT trong tương lai. Đối với các công ty chứng khoán là những đơn vị tiếp xúc trực tiếp với NĐT, nghiên cứu này sẽ giúp các công ty hiểu rõ những suy nghĩ của NĐT cá nhân đối với GDCKTT từ đó có kế hoạch đào tạo, hướng dẫn các NĐT cá nhân sử dụng hiệu quả hình thức GDCKTT. Đối với bản thân sinh viên sẽ có hiểu biết sâu rộng hơn về hình thức GDCKTT nói riêng và thị trường chứng khoán tại Việt Nam nói chung. PHẠM VI ĐỀ TÀI Trong việc khảo sát, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu tại TPHCM, thời gian từ 8/10-28/12/2007. Đối tượng nghiên cứu: Những NĐT cá nhân đang tham gia giao dịch trực tiếp tại các sàn trên thị trường chứng khoán TP.HCM. Họ có thể là người đã từng sử dụng Giao dịch chứng khoán qua mạng Internet hoặc chưa từng sử dụng dịch vụ này vì mục tiêu thực sự của nghiên cứu này là khảo sát dự định sử dụng đối với hình thức GDCKTT trên cơ sở triển khai giao dịch không sàn của HOSE trong tương lai chứ không phải đối với hình thức giao dịch chứng khoán qua mạng Internet hiện nay. Trong phạm vi đề tài, luận văn chỉ thực hiện nghiên cứu dự định sử dụng của NĐT cá nhân đối với Giao dịch chứng khoán trực tuyến qua máy tính mà không quan tâm đến một số hình thức phát triển khác của Giao dịch chứng khoán trực tuyến như Giao dịch qua điện thoại di động v.v… CHƯƠNG 2 GIỚI THIỆU HÌNH THỨC GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN TRỰC TUYẾN Chương 2 bao gồm các nội dung chính: Mô tả các hình thức giao dịch chứng khoán hiện nay Mô tả hình thức GDCKTT sẽ được triển khai trong tương lai MÔ TẢ CÁC HÌNH THỨC GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HIỆN NAY Hình thức giao dịch chứng khoán chủ yếu tại thị trường chứng khoán Việt Nam trước đây là NĐT đến giao dịch trực tiếp tại sàn và giao dịch qua điện thoại. Đối với Giao dịch trực tuyến (GDTT) thì đến cuối tháng 3/2003 CTCK Ngân hàng Ngoại thương (VCBS) là đơn vị đầu tiên triển khai dịch vụ giao dịch qua mạng Internet. Tính đến nay thì số lượng những công ty có cung cấp dịch vụ giao dịch qua mạng Internet vẫn chưa nhiều, khoảng 10 trong số hơn 60 CTCK đang hoạt động tại Việt Nam, ngoài VCBS có VNDirect (VNDS), Tân Việt, Âu Lạc, APEC, SSI, Gia Quyền (EPS), CTCK TP.HCM (HSC) (nguồn www.Thanhnien.com.vn). Ngoài ra, một số công ty cũng đã triển khai dịch vụ đặt lệnh giao dịch qua tin nhắn SMS như APEC, ACBS v.v… Giao dịch trực tiếp tại sàn Đây là hình thức giao dịch “cổ điển” của tất cả các thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư viết phiếu lệnh mua hoặc bán chứng khoán tại sàn sau đó đưa cho nhân viên nhập lệnh tại quầy giao dịch. Nhân viên giao dịch này sẽ chuyển lệnh đến nhân viên đại diện sàn tại TTGDCK. Khuyết điểm của hình thức này là NĐT phải chờ xếp hàng nộp lệnh, chờ đến phiên lệnh của mình được nhân viên giao dịch nhập vào hệ thống của CTCK do đó sự chậm trễ về thời gian sẽ gia tăng. Giao dịch qua điện thoại Để được đặt lệnh qua điện thoại, nhà đầu tư phải đăng ký giao dịch qua điện thoại qua một bản hợp đồng được phát khi NĐT mở tài khoản tại CTCK và nộp cho nhân viên giao dịch tại quầy giao dịch. Mỗi nhà đầu tư sẽ có một mật khẩu để giao dịch qua điện thoại. Khi gọi điện đến đặt lệnh, nhà đầu tư phải đọc rõ ràng, chính xác các thông tin về tài khoản, mật khẩu giao dịch va
Tài liệu liên quan