Trong những năm gần đây, với chính sách mở của của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm tăng nhanh, tăng mạnh cả về chất lượng và số lượng trong đó có nhu cầu về thịt và sữa.
Trước thực tế đó và sử dụng lợi thế sẵn có của ngành chăn nuôi, nước ta là khai thác tối ưu nguồn thức ăn, bãi chăn cũng như nguồn phụ phẩm công - nông nghiệp. Chúng ta cần phải đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi đặc biệt là ngành chăn nuôi bò sữa để đáp ứng nhu cầu trên (đặc biệt là nhu cầu về sữa).
So với một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ thì ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta là một ngành sản xuất còn non trẻ. Trong những năm gần đây nhà nước đang khuyến khích và có nhiều chương trình đàu tư cho lĩnh vực này. Vì vậy, đàn bò sữa đã phát triển khá nhanh ở Hà Tây, Hà Nội, TPHCM, Sơn La, Lâm Đồng. Năm 1999 nước ta có khoảng 29.000 con, cuối năm 2002 là 54.400con và đến tháng 9/2003 là 80.000 con bò sữa nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của người tiêu dùng.
Một phần chưa đáp ứng được nhu cầu đó là do chúng ta chưa phát huy hết tiềm năng sinh học của chúng.
Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều của nước ta, chưa thích hợp với giống Bò Hostein Friesion (ôn đới), vì vậy chúng ta chủ ý nuôi con lai hướng sữa (HF X LS). Nhưng phương thức chăn nuôi thường phân tán ở các nông hộ và các trại nhỏ với điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, do đó thường dẫn đến các chỉ tiêu sinh sản không ổn định và ở mức cao như: tuổi động dục lần đầu cao (24-36 tháng), khoảng cách giữa hai lứa đẻ kéo dài (14-18 tháng). Ngoài ra tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cũng như mắc một số bệnh sản khoa lớn (đặc biệt là hiện tượng chậm sinh).
Trước tình hình đó, đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp thiết là phải làm thế nào để nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò cũng như tăng hiệu quả về kinh tế, phát huy tối đa tiềm năng sinh học của đàn bò sữa, tăng nhanh, tăng mạnh về cả số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên và góp phần đánh giá thực trạng đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm NC bò và ĐC Ba Vì nói riêng và nước ta nói chung để tứ đó đưa ra một số biện pháp nhằm cải thiện khả năng sinh sản của đàn bò sữa chúng tôi tiến hành đề tài: " Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì"
66 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Phần I: Mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
II. Mục đích của đề tài
Phần II
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam và trên Thế giới
1.1. Tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới
1.2. Tình hình chăn nuôi Bò sữa ở Việt Nam
II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng của cơ quan sinh dục Bò cái
2.1. Buồng trứng
2.2. ống dẫn trứng
2.3. Tử cung
2.4. âm đạo
2.5. Các bộ phận khác
III. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của Bò cái
3.1. Sự thành thục về tính
3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục)
3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục của bò cái
3.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của bò cái
IV. Một số bệnh sản khoa thường gặp trên bò sữa tại Trung tâm
4.1. Bệnh trong thời gian gia súc mang thai.
4.2. Bệnh trong thời gian gia súc sinh đẻ
4.3. Bệnh trong thời gian gia súc không mang thai
V. các hormone sinh sản chính và một số chế phẩm đặt âm đạo.
5.1 Các hormone sinh sản chính
5.1.1.GnRH
5.1.2.Các hormone Gonadotropin
5.1.3.Estrogen.
5.1.4.Progesterone
5.1.5.Prostaglandin
5.2. Một số chế phẩm đặt âm đạo.
5.2.1. CIRD
5.2.2. PRID
5.2.3. CUEMATE
Phần III
Đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu
I. Đối tượng
II. Nội dung nghiên cứu
2.1. Một số chỉ tiêu về tính năng sinh sản của Bò sữa
2.1.1. Tuổi phối giống lần đầu
2.1.2.Tuổi đẻ lứa đầu
2.1.3.Thời gian động dục lại sau khi đẻ
2.1.4. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ
2.1.5. Hệ số phối giống và tỷ lệ thụ thai
2.1.6. Sản lượng sữa trên một chu kỳ
2.1.7.Tỷ lệ bê cái trên bê đực
2.2. Một số bệnh sản khoa thường gặp của đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
2.2.1. Bệnh trong giai đoạn mang thai
2.2.2 Bệnh trong quá trình sinh đẻ.
2.2.3. Bệnh trong giai đoạn không mang thai
2.3. Một số biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh sản
2.3.1.Sử dụng một số hormone hướng sinh dục.
2.3.1. Thụt rửa cho bò sau khi đẻ bằng dung dịch lugon 0,1-0,2%
III. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu sinh sản
3.2. Phương pháp đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa
3.3.Phương pháp sử dụng một số chế phẩm hormone và dung dịch thụt rửa
IV.Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Phần IV
Kết quả và thảo luận
I. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
1.1. Cơ cấu đàn bò của TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì năm 2004 - 2005
1.2. Kết quả điều tra một số chỉ tiêu sinh sản
II. Kết quả điều tra một số bệnh sản khoa thường gặp trên đàn Bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đòng cỏ Ba Vì
III. kết quả sử dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng s inh sản trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
3.1.Nhận xét chung.
3.2.Kết quả sử dụng pgf2a trên bò chậm động dục do thể vàng tồn lưu bệnh lý
3.3.Kết quả gây động dục của pgf2a hai liều cách nhau 11 ngày trên bò chậm sinh
3.4.Kết quả sử dụng HCG động dục mà không rụng trứng.
3.5.Kết quả sử dụng dụng cụ đặt âm đạo để điều hoà chu kỳ động dục
5.6.Kết quả sử dụng dung dịch thụt rửa đối với bò sau khi đẻ
Phần V
Kết luận, tồn tại và đề nghị
I. Kết luận
1.1. Về khả năng sinh sản
1.2. Về bệnh sinh sản
1.3. Về biện pháp nâng cao khả năng sinh sản
II. Tồn tại
III. Đề nghị
Phần VI
Phụ lục ( ảnh)
Tài liệu tham khảo
Phần I
Mở đầu
I. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, với chính sách mở của của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đang trên đà phát triển mạnh, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao, nhu cầu về thực phẩm tăng nhanh, tăng mạnh cả về chất lượng và số lượng trong đó có nhu cầu về thịt và sữa.
Trước thực tế đó và sử dụng lợi thế sẵn có của ngành chăn nuôi, nước ta là khai thác tối ưu nguồn thức ăn, bãi chăn cũng như nguồn phụ phẩm công - nông nghiệp. Chúng ta cần phải đẩy mạnh phát triển ngành chăn nuôi đặc biệt là ngành chăn nuôi bò sữa để đáp ứng nhu cầu trên (đặc biệt là nhu cầu về sữa).
So với một số nước Châu Âu và Bắc Mỹ thì ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta là một ngành sản xuất còn non trẻ. Trong những năm gần đây nhà nước đang khuyến khích và có nhiều chương trình đàu tư cho lĩnh vực này. Vì vậy, đàn bò sữa đã phát triển khá nhanh ở Hà Tây, Hà Nội, TPHCM, Sơn La, Lâm Đồng... Năm 1999 nước ta có khoảng 29.000 con, cuối năm 2002 là 54.400con và đến tháng 9/2003 là 80.000 con bò sữa nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu của người tiêu dùng.
Một phần chưa đáp ứng được nhu cầu đó là do chúng ta chưa phát huy hết tiềm năng sinh học của chúng.
Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều của nước ta, chưa thích hợp với giống Bò Hostein Friesion (ôn đới), vì vậy chúng ta chủ ý nuôi con lai hướng sữa (HF X LS). Nhưng phương thức chăn nuôi thường phân tán ở các nông hộ và các trại nhỏ với điều kiện nuôi dưỡng khác nhau, do đó thường dẫn đến các chỉ tiêu sinh sản không ổn định và ở mức cao như: tuổi động dục lần đầu cao (24-36 tháng), khoảng cách giữa hai lứa đẻ kéo dài (14-18 tháng)... Ngoài ra tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục cũng như mắc một số bệnh sản khoa lớn (đặc biệt là hiện tượng chậm sinh).
Trước tình hình đó, đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp thiết là phải làm thế nào để nâng cao khả năng sinh sản của đàn bò cũng như tăng hiệu quả về kinh tế, phát huy tối đa tiềm năng sinh học của đàn bò sữa, tăng nhanh, tăng mạnh về cả số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu về sản xuất và tiêu dùng.
Xuất phát từ những yêu cầu trên và góp phần đánh giá thực trạng đàn bò lai hướng sữa của Trung tâm NC bò và ĐC Ba Vì nói riêng và nước ta nói chung để tứ đó đưa ra một số biện pháp nhằm cải thiện khả năng sinh sản của đàn bò sữa chúng tôi tiến hành đề tài: " Khảo sát một số chỉ tiêu sinh sản và bệnh sinh sản thường gặp trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại Trung tâm nghiên cứu bò và đồng cỏ Ba Vì"
II. Mục đích của đề tài
2.1. Đánh giá một số chỉ tiêu sinh sản của đàn Bò lai hướng sữa tại TTNC Bò và đồng cỏ Ba Vì
2.2.Đánh giá tỷ lệ mắc bệnh sản khoa trên đàn bò lai hướng sữa nuôi tại TTNC bò và ĐC Ba Vì
2.3. ứng dụng một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao khả năng sinh sản tên đàn bò lai hướng sữa tại Trung tâm
phần II
Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
I. Sơ lược tình hình chăn nuôi Bò sữa trên thế giới cũng như ở Việt Nam
1.1.Sơ lược tình hình chăn nuôi bò sữa trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có 1.500 triệu con Bò sữa nhưng được phân bố không đều giữa các châu lục. Sự phân bố này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và địa lý tự nhiên của mỗi nước và tập trung chủ yếu ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Châu úc. Các nước có nền kinh tế kém phát triển ở Châu Phi và Châu á chủ yếu chăn nuôi bò hướng thịt và cày kéo.
Trong những năm gần đây, một số nước đã chú trọng và có nhiều dự án để phát triển ngành chăn nuôi bò sữa, đặc biệt một số nước ở Châu á như Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, có một số nước đã thành công với tốc độ này như Trung Quốc, năm 2002 có 5.66 triệu con bò sữa, tổng sản lượng sữa sản xuất trong nước đạt 11,23 triệu tấn đáp ứng được 70-80% nhu cầu tiêu dùng trong nước. Đài Loan đã tự sản xuất và đáp ứng được trên 70% nhu cầu về sữa. Thái Lan đã sản xuất được 40% nhu cầu tiêu dùng sữa trong nước...
Khác với các nước ở Châu Âu là khu vực có ngành chan nuôi bò sữa và sản xuất sữa lâu đời, các nước Châu á có 2 loại hình sản xuất sữa:
+Loại hình 1: sản xuất sựa chủ yếu dựa trên sông (River Baffalo) và bò U (Bos Indicus) với yêu cầu đầu tư và kỹ thuật không cao, sữa tiêu thụ rộng rãi ở nông thôn và thành thị. Nhóm này chủ yếu gồm các nước ở Nam á: ấn Độ, Pakixtan,Bănglađet, Nepan, Xrilanca, là các nước có nghề sản xuất sữa truyền thống.
+Loại hình 2 : gồm các nước có nghề sản xuất sữa chưa phải là truyền thống, chỉ nuôi bò hạn chế ở 1 số vùng với giống bò có nguồn gốc từ Châu Âu và Bắc Mỹ, đòi hỏi đầu tư và trình độ kỹ thuật cao, lao động lành nghề. Nhóm nay gồm các nước Thái Lan, Malaixia, Philipin, Inđonexia,Việt Nam ( Nguyễn Văn Thiện, 2000)[ ].
Một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển ngành chăn nuôi trâu bò sữa nói chung và bò sữa nói riêng là là khối lượng sữa tính trên đầu người. Đứng hàng đầu là Tây Tây Lan (1902kg sữa/đầu người). Lượng sữa đạt trên 500kg/đầu người là Đan Mạch, Hà Lan, Pháp, úc, Thuỵ Sĩ, Ba Lan. Từ 300-500kg sữa/đầu người là Nga, Đức, Canada, Nhật, Thuỵ Điển. Các nước khác như: Trung Quốc, ấn Độ, Mehico, Thổ nhĩ kỳ... chỉ đạt 4-71kg sữa/đầu người (Giáo trình chăn nuôi Bò sữa).
1.2. Sơ lược tình hình chăn nuôi bò sữa ở Việt Nam
Với chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta về phát triển ngành chăn nuôi: " Chăn nuôi phải nhanh chóng trở thành ngành sản xuất chính nhằm cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng về thịt, trứng và tiến tới cung cấp sữa".Với mục tiêu đó, năm 1958 nước ta đã nhập bò lang trắng đen Bắc Kinh về nuôi thử tại Ba Vì (Hà Tây), SaPa(Lào Cai), Đồng Giao(Ninh Bình). Đến năm 1968 đã nhập tiếp bò lang trăng đen Bắc Kinh thích nghi nuôi ở Ba Vì. Nhưng các đàn bò sữa này phát triển kém, tỷ lệ loại thải cao, năng suất sữa thấp. Sau đó, đàn bò được chuyển lên Mộc Châu(Sơn la), nơi có điều kiện khí hậu, thời tiết thích hợp hơn và đã thu được kết quả tốt hơn.
Từ năm 1970-1978 nước ta đã nhập thêm 883 con bò sữa HF từ CuBa về nuôi thích nghi ở Mộc Châu. Dưới sự hướng dẫn của chuyên gia CuBa và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mà đàn bò sữa gốc CuBa nuôi ở Mộc Châu đã đạt tới 3900-4200kg/chu kỳ. Năm 1977, chuyển 255 con từ Mộc Châu vào Lâm Đồng và một số nơi khác để nhân rộng nhưng do chưa được chú trọng nhiều nên ngành chăn nuôibò sữa ở nước ta phát triển còn chậm.
Từ năm 1986, do chuyển đổi cơ cấu quản lý tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, các nông trường chăn nuôi bò sữa đã gặp rất nhiều khó khăn do đòi hỏi phải chuyển đổi hình thức, cơ cấu, mục tiêu sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chăn nuôi bò sữa đã mất dần vị trí và giảm số lượng đáng kể. Nhưng từ năm 2001, ngành chăn nuôi bò sữa ở nước ta đã được khôi phục và phát triển với chính sách đầu tư và khuyến khích của Đảng. Các địa phương đã chú trọng đầu tư, tăng cường nâng cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật và phát triển đàn bò sữa bằng cách vừa lai tạo vừa nhân dàn bò thuần, đồng thời nhập nội đàn bò thuần và tinh bò cao sản. Kết quả là đến cuối năm 2003, tổng đàn bò sữa cả nước có khoảng 80.000 con. Dự tính đến năm 2010 tổng đàn bò sữa nước ta khoảng 300.000 con.
II. Những đặc điểm chính về cấu tạo và chức năng cơ quan sinh dục bò cái
Cơ quan sinh dục bò cái gồm những bộ phận chủ yếu sau: Buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo, và âm hộ.
2.1. Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của bò gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng gần mút sừng tử cung, cạnh trước của xương ngồi hay ở phía dưới sừng tử cung. Buồng trứng thường nằm trong xoang chậu khi chưa sinh sản.
Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng, nhưng phần lớn có hình bầu dục hoặc hình ô van dẹt, không có lõm rụng.
Buồng trứng bên ngoài là một lớp màng liên kết, bên trong được chia làm hai miền: miền vỏ và miền tuỷ. Hai miền này được cấu tạo bằng lớp mô liên kết sợi xốp tạo cho buồng trứng một chất đệm. Trên buồng trứng của bò có từ 70.000-100.000 noãn bào ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Tầng ngoài là những noãn bào sơ cấp được phân bố tương đối đồng đều. Tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang sinh trưởng. Noãn bào sơ cấp có trứng ở giữa, xung quanh là các tế bào noãn. Khi noãn bào chín sẽ được nổi lên trên bề mặt buồng trứng. Đến một giai đoạn nhất định, noãn bào vỡ ra, tế bào trứng theo dịch noãn bào đi vào loa kèn và đi vào ống dẫn trứng. Nơi noãn bào sẽ vỡ ra hình thành thể vàng và thể vàng tồn tại phụ thuộc vào tế bào trứng được thụ tinh hay không thụ tinh. Nếu tế bào trứng không được thụ tinh thì thể vàng tồn tại không lâu, rồi tan biến mất. Còn trứng được thụ tinh thì thể vàng tồn tại tới khi sinh đẻ. Thể vàng tồn tại sẽ tiết ra Progesterone.
Buồng trứng ngoài chức năng sinh ra tế bào trứng còn tiết ra dịch nội tiết (trong đó có hormone Oestrogen)
2.2. ống dẫn trứng (Ovidustus)
ống dẫn trứng của bò nằm trên màng treo ống dẫn trứng, một đầu thông với xoang bụng gần sát buồng trứng và có hình loa kèn. Đầu kia thông với mút sừng tử cung.
Có thể chia ống dẫn trứng thành 4 đoạn chức năng: Đoạn tua diềm, phễu, phồng ống dẫn trứng và đoạn eo của ống dẫn trứng (Nguyễn Tấn Anh,1995).
ống dẫn trứng được cấu tạo bởi 3 lớp:
- Lớp ngoài là lớp sợi liên kết
- Lớp giữa là lớp cơ
- Lớp trong là lớp niêm mạc
Chức năng của ống dẫn trứng là vận chuyển trứng và tinh trùng theo chiều ngược nhau và đồng thời một lúc. Dịch ống dẫn trứng cung cấp điều kiện thích hợp cho sự thụ tinh và phân chia của phôi bào gồm chất dinh dưỡng và bảo vệ cho tinh trùng, noãn bào và hợp tử - phôi sau đó.
Ngoài ra niêm mạc ống dẫn trứng và tử cung còn tiết ra men hyaluronidaza tham gia vào quá trính thụ tinh (Xukhaep, 1975, V.S.Sipilep, 1976).
2.3. Tử cung (Uteus)
Tử cung của bò hình sừng cừu, nhìn từ ngoài vào trong gồm cổ tử cung, thân tử cung và sừng tử cung. Đối với bò cái tơ thì toàn bộ tử cung nằm trong xoang chậu, khi đẻ nhiều lứa thì tử cung nằm trong xoang bụng.
a. Cổ tử cung
Là phần cuối cùng của tử cung, cổ tử cung tròn thông với âm đạo và luôn đóng, chỉ mở khi hưng phấn cao độ, lúc sinh đẻ hay khi bị bệnh lý.
b. Thân tử cung
ở bò thân tử cung ngắn, và được nối giữa sừng tử cung và cổ tử cung
c. Sừng tử cung
Sừng tử cung ở bò gồm 2 sừng : trái và phải, 2 sừng này gắn với thân tử cung và dính lại với nhau tạo thành một lõm hình lòng máng phía trên của tử cung gọi là rãnh đầu tử cung.
Tử cung cũng được cấu tạo bởi 3 lớp:
- Lớp ngoài cùng là lớp liên kết sợi mỏng
- Lớp giữa là lớp cơ trơn: đây là lớp cơ khoẻ nhất trong cơ thể, nó giữ vai trò quan trọng trong việc đẩy thai ra ngoài.
- Lớp cơ trong cùng là lớp niêm mạc: niêm mạc tử cung bò gấp nếp nhiều lần làm cho tử cung không đồng đều tạo thành những thuỳ, gọi là thuỳ hoa nở.
Tử cung là nơi làm tổ của hợp tử, ở đây hợp tử sau này là thai và phát triển được là nhờ dưỡng chất từ cơ thể mẹ thông qua lớp nội mạc tử cung cung cấp. Giai đoạn đầu phần hợp tử sống được một phần dựa vào noãn hoàng, một phần dựa vào "sữa tử cung" thông qua cơ chế thẩm thấu. Sau này giữa mẹ và con hình thành hệ thống nhau thai.
Nội mạc tử cung và dịch tử cung giữ một vai trò chủ chốt trong qúa trình sinh sản như vận chuyển tinh trùng và trứng, tham gia điều hoà chức năng của thể vàng, đảm nhận sự làm tổ, mang thai và đẻ.
2.4. Âm đạo (Vagina)
Âm đạo là cái ống tròn để chứa cơ quan sinh dục khi giao phối, đồng thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ.
Trước âm đạo là tử cung, phía sau là tiền đình có màng trinh (hymen) che lỗ âm đạo.
Cấu tạo âm đạo cũng được chia làm 3 lớp: tổ chức liên kết ở ngoài, cơ trơn ở giữa, lớp niêm mạc ở trong.
2.5. Các bộ phận khác
Ngoài các bộ phận trên thì cơ quan sinh dục bò cái còn có : âm môn, âm vật, âm đạo. Đây là những bộ phận sinh dục bên ngoài, có thể nhìn, sờ và quan sát được.
iii. Đặc điểm sinh lý, sinh sản của bò cái
3.1. Sự thành thục về tính
Khi cơ quan sinh dục của gia súc cái phát triển đến mức độ hoàn thiện, buồng trứng có noãn bào chín, có trứng rụng và trứng có khả năng thụ thai, tử cung cũng biến đổi theo và đủ điều kiện cho thai phát triển trong tử cung. Những dấu hiệu động dục trên xuất hiện với gia súc ở tuổi như vậy gọi là thành thục về tính. Trong thực tế, sự thành thục về tính thường sớm hơn sự thành thục về thể vóc. Sự thành thục về tính và thể vóc phụ thuộc vào nhiều yếu tố như giống, dinh dưỡng, ngoại cảnh... Nếu bò lai hướng sữa nuôi dưỡng tốt thì sự thành thục về tính lúc 12 tháng tuổi, còn thể vóc đảm bảo cho cho sự phối giống thì từ 15 tháng tuổi trở lên (Theo Sipilop, 1967) và (TXL,1999). Đối với bò HF nếu cho ăn đầy đủ, chăm sóc tốt thì có thể thành thục lúc 10-12 tháng tuổi.
3.2. Chu kỳ tính (Chu kỳ động dục)
Khi đã thành thục về tính thì những biểu hiện tính dục của bò được diễn ra liên tụcvà có tính chu kỳ. Các noãn bào trên buồng trứng phát triển đến độ chín nổi cộm lên trên bề mặt buồng trứng gọi là nang Graaf. Khi nang Graaf vỡ thì trứng rụng gọi là sự rụng trứng. Mỗi lần rụng trứng con vật có những biểu hiện tính dục ra bên ngoài gọi là chu kỳ động dục. Trứng rụng có tính chu kỳ nên động dục cũng có chu kỳ, 1 chu kỳ động dục của Bò thường là 21 ngày và dao động 17-24 ngày. Quá trình trứng chín và rụng chịu sự điều hoà chặt chẽ của hormone. Trên cơ sở đó có nhiều tác giả chia chu kỳ sinh dục ra làm 2 pha:
- Pha Folliculin: gồm toàn bộ biểu hiện trước khi rụng trứng
- Pha Lutein: Gồm những biểu hiện sau khi rụng trứng và hình thành thể vàng
Trong các chu kỳ động dục của bò có nhiều tác giả đã đề cập đến các đợt sóng nang (Foliculas Ware).
Sóng nang là sự phát triển đồng loạt của một số bao noãn ở cùng một thời gian. Các công trình nghiên cứu theo dõi sự phát triển buồng trứng Invivo bằng phương pháp nội soi và siêu âm được nhiều tác giả công bố. Các tác giả cho thấy ở bò trong một chu kỳ thường có 2-3 sóng nang phát triển (một số ít có 4 đợt). Đợt 1 bắt đầu diễn ra sau khi rụng trứng, vào ngày thứ 3-9 của chu kỳ. Đợt 2 vào ngày 11-17 và đợt 3 vào ngày 18-20. Mỗi đợt sóng nang có thể huy động tới 15 nang, kích thước từ 5-7mm. Sau này có một số nang phát triển hơn gọi là nang trội (nang khống chế), kích thước của nang khống chế ở đợt 1, 2, 3 có thể đạt tới 12-15mm và các kích thước nang tương ứng quan sát thấy vào ngày thứ 6,13,21 (Salin,1987,Monget,Inter-Ag,1994)[]
Đặc điểm quan trọng trong các đợt phát triển nang là sự phát triển có tính tự điều khiển và cạnh tranh giữa các nang. Mỗi đợt có 1-2 nang trội, vài nang lớn phát triển và sự phát triển của các nang khác bị kìm hãm. Tuy vậy, khi thể vàng còn tồn tại thì nang không chế và nang lớn sẽ bị thoái hoá, chỉ có đợt cuối cùng khi thể vàng không còn thì nang khống chế mới phát triển tới chín và quá trình rụng trứng mới được xảy ra. Do đặc điểm này các đợt phát triển nang gọi là sóng phát triển. Trong mỗi đợt sóng như vậy sự tồn tại của các nang không phải nang khống chế dao động 5-6 ngày (Irelan,1987; Forture và cs, 1988). Riêng nang khống chế có thể phát triển nhanh sau ngày 18 của chu kỳ, tốc độ phát triển của nang khống chế ở thời điểm này có thể đạt 1,6mm/ngày(Forture và cs,1998, Savio và ctv, 1998) (trích Hoàng Kim Giao và Nguyễn Thanh Dương, 1997)[]
ở bò chu kì động dục thường kéo dài 21 ngày, thời gian động dục thường kéo dài 25 - 36 giờ (V.S. Sipilop, 1967), chu kì động dục ở gia súc mang tính đặc trưng theo loài.
Chu kì động dục của bò dược chia làm 4 giai đoạn :
- Giai đoạn trước động dục
- Giai đoạn động dục
- Giai đoạn sau động dục
- Giai đoạn cân bằng sinh học
3.3. Sự điều tiết thần kinh thể dịch đến hoạt động sinh dục
Hoạt động sinh sản chịu sự điều tiết chặt chẽ của hệ thần kinh và thể dịch. Hệ thần kinh thông qua các cơ quan nhạy cảm là nơi tiếp nhận tất cả các xung động của ngoại cảnh vào cơ thể, trước tiên là đại não và vỏ não mà mà trực tiếp là vùng dưới đồi (Hypothalamus) tiết ra các chất kích thích (yếu tố giải phóng) kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH và LH. Hai hormone này theo mạch máu tác động vào buồng trứng làm nang trứng phát triển đến mức độ chín và tiết ra oestrogen.
Trong quá trình sinh lý bình thường khi gia súc đến tuổi trưởng thành, buồng trứng đã có nang phát triển ở các giai đoạn khác nhau, trong cơ thể đã có sẵn một lượng nhất định về oestrogen. Chính hormone này tác động lên trung khu vỏ đại não và ảnh hưởng đến vỏ đại não tạo điều kiện cho sự xuất hiện và lan truyền các xung động thần kinh gây tiết GnRH chu kỳ (Gonadotrapin Realising Hormone hay là hormone giải phóng FRH và L.R.H)
FRH (Folliculin Realising Hormone)
LRH (Lutein Realising Hormon)
FRH và LRH gọi chung là GnRH
FRH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết FSH (Folicullin Stimulating Hormone). Kích tố này kích thích sự phát triển của noãn nang buồng trứng, noãn nang phát triển trứng chín, lượng oestrogen tiết ra nhiều hơn, Oestrogen tác động vào các bộ phận sinh dục thứ cấp đồng thời tác động lên trung tâm Hypothalamus, vỏ đại não gây nên hiện tượng động dục, LRH kích thích thuỳ trước tuyến yên tiết ra hormone kích thích ho