Bà Dương Thị Nga, 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về viện K (Hà Nội) khám bệnh điều trị khối u vùng hạ vị (theo Giấy giới thiệu của Trung tâm y tế huyện Sông Mã ngày 14/10/2002), ngày 18/10/2002, trong lúc ngồi chờ đến lượt khám bệnh thì bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội đọc lệnh bắt khẩn cấp về tội: ngày 12/10/2002 bà đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê - Theo đơn tố cáo của công dân Phạm Thị Lê, 50 tuổi, trú quán tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (Trung tá Bùi Đình Doãn - phó trưởng công an quận Hoàn Kiếm vì đã ký Lệnh bắt khẩn cấp và tạm giam bà Dương Thị Nga.).
Ngay sau đó, bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội tra còng số 8 và dẫn giải về Công an phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm Hà Nội trước hàng trăm cặp mắt ngỡ ngàng của những bệnh nhân đang chờ đến lượt khám bệnh.
Tại nhà tạm giam, bị can Dương Thị Nga tỏ ra ngoan cố, không chịu khai báo, không chịu thật thà nhận tội đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê, cho nên các đồng chí công an điều tra dưới sự chỉ đạo kiên quyết và trực tiếp của thiếu tá Nguyễn Mạnh Hùng - phó trưởng Công an quận Hoàn Kiếm, các đồng chí Hà Đăng Hải - đội phó đội cảnh sát điều tra; Doãn Bửu Hiệp - đội phó đội cảnh sát điều tra; Lê Huy Dương - điều tra viên đã phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ, kể cả những biện pháp mạnh để khai thác những chứng cứ về hành vi của bị can trong việc lừa đảo, chiếm đoạt 200.000 đ của công dân Phạm Thị Lê, nhằm hoàn tất hồ sơ vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân trong thời gian ngắn nhất.
Nhận được tin vợ mình bị bắt ở Hà Nội, ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan, kèm theo đơn khiếu nại của ông còn có Giấy xác nhận của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xác nhận rằng : Cho đến ngày 13/10/2002 bà Ngọc vẫn ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La nên không thể thực hiện được hành vi lừa đảo ngày 12/10/1999.
34 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1376 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khiếu nại của công dân từ lá đơn xin minh oan cho vợ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Qua đợt học tập tại lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà nước chương trình Chuyên viên chính khóa I, để hoàn thành tiểu luận này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô giáo Học viện Quản lí Giáo dục , sự quan tâm giúp đỡ tạo điều kiện về thời gian, kinh phí của trường Đại học Mỏ - Địa chất cùng với tinh thần học tập nghiên cứu nghiêm túc của tập thể lớp chuyên viên khoá VII.
Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian, tài liệu và nguồn thông tin nên nội dung tiểu luận chắc chắn còn nhiều hạn chế. Vì vậy tôi mong các Thầy Cô giáo chỉ bảo, có sự cảm thông, chia sẻ và châm chước, mong được các bạn đồng nghiệp góp ý kiến để tiểu luận có thêm nội dung thiết thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo, các bạn đồng nghiệp và các đơn vị đào tạo đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt khoá học.
Học viên
Nguyễn Tuấn Vương
MỤC LỤC
Trang
Mục lục
3
Phần mở đầu
4
I.
Mô tả tình huống
6
II.
Xác định mục tiêu xử lý tình huống
10
III.
Phân tích nguyên nhân và hậu quả
11
1.
Phân tích nguyên nhân
11
2.
Hậu quả của sự việc trên
19
IV
Kết quả của việc giải quyết tình huống
21
v
Những nhận xét, đánh giá về cách xử lý tình huống đã được tiến hành trong thực tiễn.
28
VI
Kết luận và kiến nghị
30
Tài liệu tham khảo
32
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà được thành lập năm 1945, Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng và quan tâm đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ tiếp tục cải cách bộ máy theo quan điểm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lợi Nhà nước thuộc về dân.
Nhà nước ta thường xuyên chăm lo đến việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân dân có quyền nêu ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của mình đối với các cơ quan quản lý Nhà nước liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp và chính đáng theo quy định của pháp luật. Trong hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta cũng đã xác định công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những việc trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội….Tại luật khiếu nại, tố cáo cũng đề cập: công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của các cơ quan Nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
Trước tình hình thực tế hiện nay, việc ban hành và thực hiện các quyết định hành chính ở địa phương cơ sở còn nhiều vấn đề đáng quan tâm liên quan đến quyền và trách nhiệm của công dân, đặc biệt là những khiếu nại tố cáo trong thời gian gần đây. Nguyên nhân của tình hình khiếu nại, tố cáo một mặt là do quyết định của cơ quan quản lý hành chính Nhà nước (chủ yếu là cơ sở và địa phương) còn nhiều sơ hở, sai sót chưa triệt để tuân thủ pháp luật và chỉ thị của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Mặt khác, do việc chấp hành các quy định của một bộ phận công dân chưa thật sự nghiêm túc còn biểu hiện vi phạm pháp luật mà các cơ quan bảo vệ pháp luật đã phối hợp chặt chẽ trong công tác điều tra, phát hiện truy tố đưa ra xét xử nghiêm minh, rất nhiều vụ án đem lại hiệu quả lớn có ý nghĩa nghiêm chặn và giáo dục, được nhân dân đồng ý ủng hộ, tin tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật đã được xét xử trong thời gian diễn ra ở các địa phương trong cả nước. Đáng chú ý là đơn đề nghị minh oan cho vợ của ông Dương Văn Thực, sinh năm 1945, trú quán tại bản Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, gửi các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như các cơ quan thông tin đại chúng. Vụ án 200.000đ do các cơ quan tiến hành tố tụng quận Hoàn Kiếm, Hà Nội điều tra, truy tố và xét xử đối với Dương Thị Nga về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân đã vấp phải sự phản đối quyết liệt của dư luận xã hội vì những kết luận thiếu căn cứ mà đã được Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội sau khi nghiên cứu, đánh giá vụ án đã có phán quyết chính thức vụ án này. Sau mỗi vụ giải quyết khiếu nại, có rất nhiều vấn đề đặt ra được nghiên cứu và trao đổi. Nhưng vấn đề đặt ra mà dư luận và các nhà quản lý quan tâm là nguyên nhân xảy ra, trách nhiệm của từng đơn vị và của từng cá nhân có liên quan, đồng thời là các biện pháp đề ra về công tác quản lý nhà nước, quản lý cán bộ công chức của các đơn vị có liên quan rút ra từ vụ việc đó.
I. Mô tả tình huống
1. Tóm tắt vụ án
Bà Dương Thị Nga, 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về viện K (Hà Nội) khám bệnh điều trị khối u vùng hạ vị (theo Giấy giới thiệu của Trung tâm y tế huyện Sông Mã ngày 14/10/2002), ngày 18/10/2002, trong lúc ngồi chờ đến lượt khám bệnh thì bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội đọc lệnh bắt khẩn cấp về tội: ngày 12/10/2002 bà đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê - Theo đơn tố cáo của công dân Phạm Thị Lê, 50 tuổi, trú quán tại huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương (Trung tá Bùi Đình Doãn - phó trưởng công an quận Hoàn Kiếm vì đã ký Lệnh bắt khẩn cấp và tạm giam bà Dương Thị Nga.).
Ngay sau đó, bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội tra còng số 8 và dẫn giải về Công an phường Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm Hà Nội trước hàng trăm cặp mắt ngỡ ngàng của những bệnh nhân đang chờ đến lượt khám bệnh.
Tại nhà tạm giam, bị can Dương Thị Nga tỏ ra ngoan cố, không chịu khai báo, không chịu thật thà nhận tội đã lừa đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê, cho nên các đồng chí công an điều tra dưới sự chỉ đạo kiên quyết và trực tiếp của thiếu tá Nguyễn Mạnh Hùng - phó trưởng Công an quận Hoàn Kiếm, các đồng chí Hà Đăng Hải - đội phó đội cảnh sát điều tra; Doãn Bửu Hiệp - đội phó đội cảnh sát điều tra; Lê Huy Dương - điều tra viên đã phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ, kể cả những biện pháp mạnh để khai thác những chứng cứ về hành vi của bị can trong việc lừa đảo, chiếm đoạt 200.000 đ của công dân Phạm Thị Lê, nhằm hoàn tất hồ sơ vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân trong thời gian ngắn nhất.
Nhận được tin vợ mình bị bắt ở Hà Nội, ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan, kèm theo đơn khiếu nại của ông còn có Giấy xác nhận của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xác nhận rằng : Cho đến ngày 13/10/2002 bà Ngọc vẫn ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La nên không thể thực hiện được hành vi lừa đảo ngày 12/10/1999.
Nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật ở quận Hoàn Kiếm vẫn kiên quyết hoàn tất và hoàn tất các thủ tục điều tra và thụ lí vụ án để có thể đưa ra xét xử trong thời gian ngắn nhất, nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của công dân Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; Mặt khác, nhằm tăng cường pháp chế XHCN, giữ nghiêm kỷ cương phép nước.
Chỉ trong vòng một tháng, sau khi có kết quả điều tra của công an Quận, ông Đặng Đình Sơn - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và bà Vũ Thị Kim Thư - Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, chịu trách nhiệm kiểm sát viên thụ lí vụ án, đã thống nhất nội dung bản cáo trạng và đề nghị Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mở phiên toà xét xử vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân.
Tại phiên toà, sau khi đã thực hiện xong các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự, ông Vũ Ngọc Tuyên, Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, chủ toạ phiên toà đã đưa ra căn cứ pháp lý của vụ việc là Bộ luật Hình sự, Điều139. “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Ông Vũ Ngọc Tuyên cũng tuyên rằng: Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, cho nên Toà tuyên phạt bị cáo Dương Thị Nga 04 tháng tù giam, đồng thời bồi thường cho bà Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương số tiền là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Trong lúc vợ bị ngồi tù, ông Dương Văn Thực - chồng bà Dương Thị Nga vẫn kiên trì đi gõ cửa các cơ quan pháp luật, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan thông tin báo chí để kêu oan cho vợ.
Bản tin thời sự 6 giờ sáng ngày 7/1/2003 của Đài tiếng nói Việt Nam đưa ra công luận về vụ án của bà Dương Thị Nga 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về bệnh viện K (Hà Nội) khám bệnh bị bà Phạm Thị Lê 50 tuổi ở Đồng Quang - Gia Lộc - Hải Dương tố cáo là lừa đảo chiếm đoạt 200.000đ, sau đó bị Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử với mức án 04 tháng tù giam
Vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội đã được dư luận xã hội, đặc biệt là nhân dân Hà Nội hết sức quan tâm; Dư luận rất bức xúc bởi lẽ: không hiểu tại sao một vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội, lại do đồng thời cả ba cơ quan bảo vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mắc sai phạm; các cơ quan đó sai phạm là do không hiểu biết pháp luật hay là do chịu sự tác động của những yếu tố khác …?
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
- Giải quyết những rắc rối trong việc bắt, giam giữ công dân, điều tra, truy tố, xét xử công dân trái pháp luật của các cơ quan bảo vệ pháp luật;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của gia đình công dân trong việc bị bắt, bị giam giữ, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật;
- Giải quyết hài hoà giữa tính pháp lý với lợi ích kinh tế của công dân;
- Xử lí kỉ luật đối với những cán bộ, công chức nhà nước vi phạm pháp luật khi thực thi công vụ;
- Tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương phép nước.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
1. Phân tích nguyên nhân
Trước hết ta phải nắm vững quy định của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thông qua ngày 15/4/1992 (đã sửa đổi, bổ xung theo Nghị quyết số: 51, Quốc hội khoá 10, tháng 12/2001 )
. Luật khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 2/12/1998 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2005) và luật có liên quan.
Việc ông Dương Văn Thực, chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan là việc làm đúng quy định pháp luật về các quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992 (đã SĐ).
Tại Điều 74, Chương V, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã SĐ) quy định:
"Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác ".
Liên quan đến việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tại Điều139, Chương XIII “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Liên quan đến trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định tại Điều 255, Chương XXV:
” Những bản án và quyết định được thi hành
1. Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
b) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
2. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo”.
Dư luận xã hội bức xúc vì một vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên lại do đồng thời cả ba cơ quan bảo vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mắc sai phạm; Vấn đề xã hội quan tâm, cần được lí giải ở đây là:
+ Có đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân hay không ?
+ Nếu đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nhưng số lượng tiền chiếm đoạt chỉ là 200. 000 đ, thì hành vi đó đã đủ để cấu thành tội phạm, đủ để truy cứu truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa ?
+ Việc làm đó có trái với quy định của Bộ luật Hình sự 1999 tại Điều139, Chương XIII “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ hay không ?
+ Nếu việc làm đó trái với quy định pháp luật (Bộ luật Hình sự 1999) thì việc giải quyết, xử lí với những cá nhân sai phạm của 3 cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ như thế nào ?
Qua thực tế các cơ quan nhà nước khi giải quyết vụ việc, dù ở mức độ nào cũng phải ra quyết định, các quyết định hành chính đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, thông qua các quyết định được ban hành theo luật định, các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thẩm quyền của mình trong việc điều hành, quyết định hành chính trực tiếp phản ánh ý chí của quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí quyền lực đơn phương của cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức Nhà nước uỷ quyền ban hành các quyết định trên cơ sở pháp luật và nhằm thực hiện theo trình tự và hình thức văn bản theo quy định của pháp luật. Việc ban hành các quyết định hành chính là nhiệm vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm định ra chính sách, quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định pháp luật hành chính cụ thể, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của quyền hành pháp nhà nước. Do đó phải đề cao trách nhiệm vật chất cá nhân và cơ quan ra quyết định. Cấp càng cao khi ra quyết định càng đòi hỏi phải có luận cứ nghiêm túc, quyết định sáng tạo hay quan liêu phụ thuộc vào năng lực, tư duy của cá nhân và cơ quan quản lý nhà nước.
Với đặc điểm như trên, quyết định hành chính là hành vi của các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được uỷ quyền nhằm đưa ra các quyết định chung hay tình trạng pháp lý cụ thể cá biệt cho công dân hay tập thể hoặc tổ chức.
Nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi hành động của cơ quan quản lý nhà nước trong đó có hoạt động ra các quyết định hành chính phải phù hợp với pháp luật hiện hành về nội dung và trình tự ban hành, đó là mọi quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên phải nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Mặt khác các quyết định hành chính phải đảm bảo được nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều quyết định hành chính chưa tuân thủ pháp luật của cấp trên dẫn đến tình trạng khiếu nại của công dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tính hợp pháp và tính hợp lý quyết định hành chính có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, khi ban hành quyết định hành chính các cơ quan hành chính nhà nước bảo đảm được tính hợp pháp và tính hợp lý chỉ khi đó văn bản đưa ra mới có khả năng thực thi, được xã hội chấp nhận.
Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện ở chỗ các quyết định hành chính phải phù hợp với nội dung và mục đích của luật, nghĩa là các quyết định hành chính không được trái với hiến pháp, pháp luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, các quyết định đó phải được ban hành trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan hoặc chức vụ, yêu cầu này đòi hỏi mỗi cơ quan chỉ có quyền hạn ban hành quyết định, giải quyết các vấn đề nhất định do pháp luật quy định (chức năng, nhiệm vụ), không lạm quyền, lẩn tránh trách nhiệm.
Việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp cơ quan nhà nước bảo đảm cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách chủ động, không can thiệp trái thẩm quyền vào quyền hạn của cơ quan khác, để tránh lạm quyền, lẩn tránh trách nhiệm, làm mất trật tự trong quản lý hành chính nhà nước.
Quyết định hành chính nhà nước phải được ban hành xuất phát từ những lý do xác thực, bức xúc nghĩa là chỉ khi nào trong đời sống xã hội xuất hiện có nhu cầu, các sự kiện được pháp luật quy định cần phải ban hành thi cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền mới ban hành quyết định nhằm quy định chung hoặc áp dụng pháp luật cho các trường hợp cụ thể (ví dụ như trong vụ án Dương Thị Nga).
Ba ngày sau, khi vụ việc được phát trên bản tin thời sự 6 giờ ngày 7/1/2003, ngày 10/1/2003 Chánh án Toà án nhân dân thành phố Hà N