Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh
tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi
trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của
sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không
thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối
quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ
thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu
một nước có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh
hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu
hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển
của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở
tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện
xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu
ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong
khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng
phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và
văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 2 -
vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN –
China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những
định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển
và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang
phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang
thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và
tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai
bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của
cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế
của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm
bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung
Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên
cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức
lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của
ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 3 -
hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là
một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối
cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có
thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự
do này.
Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của
Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những
mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập
giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công
vào khu vực này.
Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 4 -
Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành
khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
(FAACCEC).
Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước
thành viên.
Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó
đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu
vực mậu dịch tự do này.
268 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam_Đinh Thị Việt Thu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm 1990, tốc độ toàn cầu hoá và khu vực hoá kinh
tế đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng gây ra sự lo ngại rộng rãi
trong nền kinh tế thế giới. Đây là những đặc điểm quan trọng nhất của
sự phát triển của xã hội loài người trong thế kỷ 20, một xu hướng không
thể đảo ngược vào thế kỷ 21. Những đặc điểm này dẫn tới những mối
quan hệ gần gũi hơn giữa tất cả các nước và khu vực cũng như sự phụ
thuộc lẫn nhau và cạnh tranh lớn hơn trên quy mô toàn cầu. Vì vậy, liệu
một nước có thể duy trì được tăng trưởng kinh tế liên tục và lành mạnh
hay không được quyết định bởi việc nước này có thể đối phó lại với xu
hướng phát triển kinh tế thế giới đúng lúc và điều chỉnh hướng phát triển
của mình.
Trong bối cảnh sự phụ thuộc kinh tế lẫn nhau ngày càng sâu sắc ở
tầm khu vực và toàn cầu và việc các nước ASEAN đã gần thực hiện
xong Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), câu hỏi đặt ra là liệu
ASEAN sẽ đi theo định hướng hội nhập khu vực nào sau AFTA. Trong
khi đó, mối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc ngày càng
phát triển, việc Trung Quốc gia nhập WTO, những gần gũi về địa lý và
văn hoá giữa ASEAN và Trung Quốc, thì sự lựa chọn thiết lập một Khu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 2 -
vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Trung Quốc – ACFTA (ASEAN –
China Free Trade Area) có thể là một câu trả lời về một trong những
định hướng hợp tác phát triển kinh tế tiếp theo của ASEAN.
Thật vậy, ASEAN và Trung Quốc là những nước đang phát triển
và đang ở những giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang
phải đối mặt với những cơ hội và thách thức trong một thế giới đang
thay đổi nhanh chóng. Việc thành lập một hiệp định thương mại tự do và
tăng cường quan hệ song phương là một quyết định sáng suốt của hai
bên trong quá trình theo đuổi những cơ hội phát triển mới. Trong bối
cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại và nhiều năm suy thoái của
cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
- Trung Quốc sẽ đặc biệt có lợi đối với tiềm năng tăng trưởng kinh tế
của hai bên. Hơn nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm
bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu vực và cho phép ASEAN và Trung
Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương mại quốc tế. Bên
cạnh những cơ hội đó, việc thiết lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc trong vòng 10 năm tới chắc chắn sẽ tạo ra nhiều thách thức
lớn đối với các nước tham gia, đặc biệt đối với các thành viên mới của
ASEAN trong đó có Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những cơ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 3 -
hội và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc là
một trong những vấn đề có tính thời sự và có ý nghĩa thiết thực trong bối
cảnh hiện nay để có thể giúp các nước thành viên, nhất là Việt Nam, có
thể chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả vào Khu vực mậu dịch tự
do này.
Do vậy, em mạnh dạn chọn đề tài "Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của
Việt Nam” với mong muốn đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ những
mảng sáng tối của bức tranh kinh tế các nước ASEAN nói chung và Việt
Nam nói riêng trong bối cảnh một khu vực mậu dịch tự do được thiết lập
giữa ASEAN và Trung Quốc, từ đó giúp Việt Nam hội nhập thành công
vào khu vực này.
Khoá luận sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp lý luận biện chứng, phương pháp nghiên cứu tài liệu,
có sự tổng hợp, phân tích và so sánh, nhằm làm sáng tỏ vấn đề cần
nghiên cứu.
Bố cục của khoá luận, ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài
liệu tham khảo và Phụ lục, bao gồm 3 chương chính:
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 4 -
Chương 1 phân tích những nhân tố thúc đẩy sự ra đời của Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc và tóm tắt quá trình hình thành
khu vực này, đồng thời khái quát hoá những nội dung cơ bản nhất của
Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc
(FAACCEC).
Chương 2 đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức nói chung
của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với các nước
thành viên.
Chương 3 là chương cuối cùng, tập trung vào những tác động của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc đối với Việt Nam, từ đó
đưa ra một số kiến nghị để thúc đẩy sự hội nhập của Việt Nam vào Khu
vực mậu dịch tự do này.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu tài liệu và tiến hành tổng hợp, phân tích,
so sánh, khoá luận đã có những cố gắng nhất định nhằm đưa ra một cái
nhìn tổng quan về những cơ hội và thách thức đối với các nước thành
viên, đặc biệt là đối với Việt Nam, một khi Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc được thành lập, từ đó đưa ra một số đề xuất để
tăng cường sự hội nhập của Việt Nam vào Khu vực mậu dịch tự do này.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 5 -
Tuy vậy, do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về
thời gian, kiến thức và tài liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của của
các thầy cô và các bạn. Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
cô giáo, Tiến sĩ Vũ Thị Kim Oanh, đã hướng dẫn và chỉ bảo tận tình cho
em trong suốt thời gian thực hiện khoá luận. Em cũng xin gửi lời cảm ơn
đến các cô, chú và anh, chị đang công tác tại Vụ hợp tác kinh tế đa
phương (Bộ Ngoại giao), Trung tâm thông tin Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Trung tâm thông tin tư liệu thuộc Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM), và Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc đã giúp đỡ em
hoàn thành khoá luận này.
Hà nội, tháng 12/ 2003
Sinh viên
Đinh Thị Việt Thu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 6 -
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH KHU VỰC MẬU DỊCH
TỰ DO ASEAN - TRUNG QUỐC (ACFTA)
1.1. Những nhân tố thúc đẩy sự hình thành ACFTA
1.1.1. Sự phát triển mạnh mẽ của các khu vực mậu dịch tự do (FTA)
trên toàn cầu
Nền kinh tế thế giới đã trải qua sự biến đổi chưa từng thấy trong
nửa cuối những năm 1990. Đặc biệt, các hoạt động của các tập đoàn đã
được toàn cầu hoá mạnh mẽ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), sự sáp nhập và mua lại (M&As) xuyên biên giới và thông qua các
kênh giao dịch quốc tế khác nhau. Cùng với cuộc cách mạng công nghệ
thông tin, luật chơi mới về cạnh tranh đã được thiết lập ở các lĩnh vực
như kiểm soát quản lý, quản lý công nghệ, nội địa hoá và mối quan hệ
giữa các hãng, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài và sử dụng các chính
sách thương mại quốc tế.
Mục đích và nội dung của các thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
cũng đã thay đổi mạnh mẽ. Trong quá trình hình thành khu vực mậu
dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu Âu (EU) vào nửa đầu
những năm 1990, cuộc thảo luận kinh tế về những quan điểm thuận và
chống PTA phần lớn chỉ giới hạn ở những đánh giá mang tính lý thuyết
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 7 -
và chiêm nghiệm về sức sáng tạo thương mại của J. Viner [1] và các tác
động méo mó của thương mại. Tuy nhiên, không khí xung quanh ý
tưởng chủ nghĩa khu vực đã thay đổi mạnh mẽ vào nửa cuối những năm
1990.
Một đối tác tích cực là EU. Sau khi hoàn thành sự hội nhập sâu sắc
giữa các nước thành viên, EU bắt đầu đàm phán một loạt khu vực mậu
dịch tự do (FTA – Free Trade Area) với một số thành viên của Hội đồng
thương mại tự do Châu Âu (EFTA), với các nước Đông Âu và các nước
ven Địa Trung Hải. Các đối tác tích cực khác là những nước tương đối
nhỏ bao gồm Mehico, Chile và Singapore. Những nước này đã đàm
phán và ký kết một số FTA với cả những nước trong khu vực cũng như
những nước cách xa về địa lý. Bị kích thích bởi các bước phát triển này,
trong suốt những năm 80, Mỹ đã tích cực theo đuổi khả năng thành lập
khu vực mậu dịch tự do với các nước khác ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương. Bước đi đầu tiên của nước này là việc đưa ra đề nghị thành
lập khu vực mậu dịch tự do với Australia. Năm 1987, Mike Mansfield -
đại sứ Mỹ tại Nhật Bản đã đưa ra đề nghị nghiên cứu khả năng thành lập
Khu vực mậu dịch tự do Mỹ – Nhật Bản. Năm 1989, báo cáo cuối cùng
về “Sáng kiến ASEAN – Mỹ” đã được cùng nghiên cứu và đưa ra kêu
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 8 -
gọi thành lập khu vực mậu dịch tự do giữa ASEAN và Mỹ. Gần đây
hơn, năm 1997, Mỹ đã đưa ra đề nghị thành lập khu vực mậu dịch tự do
P5 (Pacific 5 – nhóm 5 nước ở Thái Bình Dương, bao gồm Australia,
Chile, New Zealand, Singapore và Mỹ). Sang đến năm 2002, quá trình
thành lập các khu vực mậu dịch tự do đã được Mỹ đẩy mạnh. Ngoài
những FTA với Mehico, Canada, Jordan và Israel, trong năm 2003, Mỹ
đã ký FTA với Singapore, Chile và các hiệp định khung về thương mại
và đầu tư với Thái Lan, Philippines và Indonesia. Đầu tháng 6/ 2003,
Mỹ cũng bắt đầu thương thảo để ký FTA với Liên hiệp quan thuế miền
nam châu Phi (gồm các nước Nam Phi, Boswana, Lesotho, Namibia và
Swaziland). Ngoài ra, Mỹ cũng đang xem xét khả năng ký kết FTA với
Colombia và Bahrain (xem bảng 1).
Bảng 1: Các khu mậu dịch tự do lớn của 1 số nước
Các khu mậu dịch tự do đã ký kết
Singapore Mehico Chile Mỹ EC/ EU *
Mỹ và Canada
(NAFTA), EU,
Canada,
Malta, Cyprus,
Andora, Thổ Nhĩ
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 9 -
New Zealand,
Nhật Bản,
EFTA
EFTA, Chile,
Israel, Các nư
thuộc khối tam
giác phía bắc
(El Salvador,
Honduras,
Nicaragoa),
Dominica,
Nicaragoa,
Costa Rica,
Bolivia, G3.
Mehico,
Trung Mỹ (Costa
Rica, El
Salvador,
Honduras,
Guatamela,
Nicaragoa),
Venezuela,
Columbia,
Equdor,
MERCOSUR,
Peru, Bolivia
Canada và
Mehico
(NAFTA),
Israel, Jordan
Kỳ, Thuỵ Sỹ,
Liechtenstein,
Ireland, Norway,
Séc, Hungary, Ba
Lan, Slovak,
Rumania, Bulgaria,
Lithuania, Estonia,
Latvia, Faeroes,
Slovenia, Mehico,
Chile, Palestine,
Tunisia, Israel,
Jordan
Các khu mậu dịch tự do đang đàm phán hay có kế hoạch bắt
đầu đàm phán
Mü, Mehico,
Canada,
Australia
Singapore
Mü, EU, EFTA,
Hµn Quèc, Panama,
Cuba, MERCOSUR
Chile, FTAA,
Singapore
MERCOSUR,
C¸c níc khèi
Andean (Bolivia,
Columbia, Peru,
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 10 -
Venezuela)
C¸c khu mËu dÞch tù do ®ang ë giai ®o¹n ®Ò xuÊt
Chile, EU, Hàn
Quốc, Pacific 5
NhËt, New
Zealand
NhËt, Singapore,
Pacific 5
Pacific 5
Nguån: Bé Kinh tÕ, Th¬ng m¹i vµ C«ng nghiÖp NhËt B¶n (METI),
2001,
Theo Sách trắng về thương mại quốc tế của JETRO (Tổ chức xúc
tiến thương mại Nhật Bản), cho đến tháng 5/ 2003 đã có khoảng 250
hiệp định mậu dịch tự do (FTA) song phương và khu vực đã được thông
báo cho GATT/ WTO, trong đó có 130 hiệp định được thông báo sau
tháng 1/ 1995. Khoảng trên 170 FTA đang có hiệu lực và 70 FTA khác
đã có hiệu lực mặc dù chưa được thông báo cho WTO. Dự kiến đến cuối
năm 2005, sẽ có 300 hiệp định mậu dịch tự do song phương và khu vực
có hiệu lực [2]. Chính tổng giám đốc WTO Sapuchai Panitchpakdhi
cũng phải thừa nhận xu thế đàm phán hiệp định mậu dịch tự do song
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 11 -
phương và khu vực đã trở nên phổ biến, và nghi ngại rằng xu thế này có
thể phá vỡ các hoạt động đa phương trong khuôn khổ WTO [3].
Ở khu vực Đông Á, tính đến tháng 12/ 2002 chỉ có 4 khu vực như
vậy được ký kết (tham khảo Phụ lục 1), nhưng điều cần nói là xu hướng
này mới chỉ xuất hiện ở Đông Á từ năm 1999. Vào cuối năm 1998, Hàn
Quốc đã đề nghị Nhật Bản nghiên cứu khả năng thành lập khu vực mậu
dịch tự do giữa hai nước. Tháng 9/ 1999, Singapore đã nhất trí với New
Zealand về việc bắt đầu đàm phán thành lập khu vực mậu dịch tự do,
nước này cũng đưa ra đề nghị tương tự đối với các nước Chile, Mehico
và Hàn Quốc. Tháng 10 năm đó, Singapore đã đưa ra đề nghị thiết lập
quan hệ giữa Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) với Hiệp định
quan hệ kinh tế gần gũi hơn giữa Australia và New Zealand (CER).
Tháng 11 năm đó, Singapore bắt đầu đàm phán với Chile và tháng 12,
nước này đề nghị đi đến một hiệp định với Nhật Bản.
Chỉ đến năm 1999 và 2000, các cuộc đàm phán và nghiên cứu ở
cấp chính phủ mới thật sự có được động lực, và đi tiên phong là
Singapore khi nước này đưa ra sáng kiến đàm phán và nghiên cứu về
khu vực mậu dịch tự do với một loạt các nước khác trong khu vực. Khái
niệm về khu vực mậu dịch tự do đại Đông Á (EAFTA) đã được đưa ra
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 12 -
thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN + 3 tổ chức vào tháng 12/
2000 và các nước đã đi đến nhất trí thành lập một nhóm nghiên cứu về
vấn đề này. Năm 2001, Singapore và New Zealand đã đạt được thoả
thuận và đó là khu vực mậu dịch tự do đầu tiên ở Đông Á phù hợp với
Điều 24 của Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT). Tháng
11 năm đó, ASEAN và Trung Quốc đã đi đến thoả thuận về nguyên tắc
đối với việc thành lập 1 khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN
và Trung Quốc trong vòng 10 năm.
Lý do khiến cho hàng loạt FTA nói trên được ký kết là bởi lẽ
thực tế đã cho thấy, ở một mức độ nhất định, nguồn lợi mà FTA
mang lại cho các quốc gia là rất lớn:
Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh, các FTA gần như bao gồm toàn
bộ các lĩnh vực trong quan hệ kinh tế thương mại giữa các thành viên:
không chỉ thương mại hàng hoá, thương mại dịch vụ, các biện pháp đầu
tư liên quan đến thương mại, … mà cả các vấn đề khác như du lịch,
thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh truyền hình …
(tham khảo Phụ lục 2). Với phạm vi bao quát rộng như vậy, FTA sẽ đem
lại nhiều lợi ích như mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo công ăn việc làm,
xúc tiến đầu tư và chuyển giao công nghệ, tăng cường đàm phán đối với
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 13 -
một nước thứ ba. Hơn thế nữa, tự do thương mại thông qua FTA sẽ càng
làm tăng sức cạnh tranh của các nhà xuất khẩu và các tổ chức thương
mại của các nước thành viên, tạo điều kiện cho họ dễ dàng thành công
trong các vòng đàm phán đa phương. Với ý nghĩa như vậy, FTA chính là
cánh cửa để một nước hội nhập thương mại với thế giới, khởi đầu cho
quá trình tự do hoá cạnh tranh, từ đó các nước có nhiều cơ hội để lựa
chọn đối tác thích hợp.
Thứ hai, mức độ điều chỉnh của các FTA sâu rộng hơn rất nhiều so
với WTO, với những ưu đãi cao nhất, tạo điều kiện thuận lợi tiến tới tự
do hoá tối đa và triệt tiêu hoàn toàn những trở ngại đối với thương mại
hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, đặc biệt là vấn đề triệt tiêu thuế suất nhập
khẩu xuống 0% và các ưu đãi mở cửa thị trường đầu tư. Ngoài ra, bản
chất của các FTA không chỉ đơn thuần là việc tự do hoá thương mại, mà
còn bao gồm cả việc hợp tác trong tất cả các lĩnh vực ngoài thương mại,
ví dụ: hợp tác trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hợp tác trong
việc phát triển công nghệ thông tin, đơn giản hoá thủ tục hải quan, xúc
tiến thương mại và đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, … Nói
cách khác, do hầu hết các FTA, đặc biệt là những FTA mới được ký kết
gần đây, đã đa dạng hoá nội dung bên cạnh nội dung loại bỏ thuế quan
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 14 -
và tự do hoá khu vực dịch vụ nên mỗi khi con đường đa phương bị tắc
nghẽn hay cản trở, các nước liền tìm đến những dàn xếp song phương
hay khu vực.
Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các FTA luôn đi ngược
lại với tiến trình của các vòng đàm phán đa phương, bởi cho đến nay vẫn
chưa có nghiên cứu nào chứng minh được các Khu vực mậu dịch tự do
hỗ trợ hay ngăn cản tự do hoá thương mại trên phạm vi toàn cầu. Nhưng
có thể thấy thành viên của hai khối mậu dịch tự do lớn nhất là EU và
NAFTA đều là thành viên của WTO mà nguyên tắc cơ bản của tổ chức
này là tối huệ quốc (không phân biệt đối xử) được nêu rõ ở điều khoản I,
nên khả năng các FTA ngăn cản tiến trình tự do hoá toàn cầu là khó xảy
ra.
Thật vậy, tuy GATT và WTO đề cao nguyên tắc không phân biệt
đối xử trong ngoại thương nhưng vẫn có những điều khoản cụ thể cho
phép các thành viên tham gia FTA, với điều kiện phải thông báo về
những FTA đó. Điều 24 của GATT quy định về việc thành lập và hoạt
động của FTA và liên hiệp thuế quan đối với trao đổi hàng hoá. Điều 5
của GATS (Hiệp định chung về thương mại và dịch vụ) cho phép lập các
FTA về trao đổi dịch vụ. Ngoài ra còn có một điều khoản đặc biệt cho
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 15 -
phép ký kết FTA về trao đổi hàng hoá giữa các thành viên là nước đang
phát triển. Các quy định này có thể không bắt buộc trong các vụ giải
quyết tranh chấp nhưng có tác dụng như là nguyên tắc ứng xử ở một
chừng mực nào đó. Tuy nhiên, còn vượt xa phạm vi của những điều
khoản này là việc không tồn tại bất kỳ một quy định chính sách nào khác
được quốc tế thừa nhận. Vì thế, các thoả thuận khu vực có thể chứa
đựng hầu hết các vấn đề vượt xa thương mại hàng hoá và dịch vụ. Nói
cách khác, ở một mức độ nhất định, các FTA có tính bổ sung cho WTO
trong việc tự do hoá thương mại. Chính vì vậy, giới học giả Nhật cho
rằng các FTA nên theo mô hình WTO – cộng, nghĩa là bao gồm nhiều
lĩnh vực hơn và mức độ sâu rộng hơn. Tại Hội nghị thách thức và cơ hội
đối với việc hợp tác khu vực APEC ngày 16/ 5/ 2003 tại Tokyo (Nhật
Bản), Đại sứ Singapore tại Nhật Bản cũng nêu rõ: “Tự do hoá thương
mại theo WTO không có được nhiều bước tiến trong những năm gần đây
do WTO có quá nhiều thành viên. Trong bối cảnh như vậy, các hiệp định
tự do khu vực và song phương sẽ là cơ chế bổ sung tốt cho tiến trình đa
phương” [3]. Như vậy, FTA là cách tiếp cận tốt thứ nhì đối với tự do hoá
mậu dịch nhưng là giải pháp khả thi nhất trong một thế giới đa dạng.
Tuy nhiên, FTA chỉ trở thành những viên đá lát đường cho toàn cầu hoá
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc và một số giải pháp thúc đẩy hội nhập của Việt Nam
Đinh Thị Việt Thu - Anh 8, K38C, Đại học Ngoại Thương - 16 -
khi nó phải đảm bảo rằng ảnh hưởng do thương mại tăng lên (trade
creation) lớn hơn ảnh hưởng do thương mại giảm đi (trade diversion)
[1]. Đến khi đó, FTA sẽ có thể trở thành một đòn bẩy thúc đẩy chủ nghĩa
đa phương và tự do thương mại toàn cầu và cuối cùng, chủ nghĩa khu
vực mới sẽ đi vào liên kết kinh tế theo chiều sâu.
Một điểm lợi nữa của FTA là trong quá trình hình thành mạng lưới
các FTA, mối liên hệ với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và cải cách
kinh tế trong nước đã đặc biệt được chú trọng. Các FTA được xem như
là các công cụ chính sác