I. Lời mở đầu:
Vài nét về Argentina.
Nội dung nghiên cứu (Khủng hoảng vỡ nợ 1998 – 2001)
Mục tiêu: giải thích nguyên nhân và rút ra bài học.
II. Nội dung nghiên cứu
1. Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng(thập niên 90)
Thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế:
Tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh
Lập hệ thống tiền tệ kép: cố định tỷ giá 1Peso =1USD
=>có tác dụng tức thời, 3 năm sau nền kinh tế phát triển tốt, kiềm chế được lạm phát.
Tuy nhiên do tự do hóa quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn =>khủng hoảng xảy ra, bắt đầu từ cuối năm 1998 và lên đến đỉnh điểm năm 2001.
2. Nguyên nhân khủng hoảng
Sai lầm trong chính sách tiền tệ (chính sách tỷ giá cố định, tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh bán cho nước ngoài .)
Lợi dụng uy tín quốc gia vay nợ nước ngoài để bù đắp ngân sách và ổn định đồng nội tệ, khi không có đủ ngoại tệ để chi trả =>vỡ nợ.
Các cú sốc từ bên ngoài:
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 97 – 98
Đô la lên giá =>Peso lên giá theo =>ảnh hưởng xuất khẩu
Mêhico phá giá đồng Peso năm 94
Braxil phá giá đồng real năm 99
Bất ổn về hệ thống chính trị (tham nhũng,lãng phí, bộ máy yếu kém .)
3. Bài học cho Việt Nam
Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP).
Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nước ngoài.
Cải cách bộ máy quản lý: giải quyết tham nhũng, Cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát, hàng rào thuế quan yếu kém .
III. Kết luận
27 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3020 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng kinh tế - Tài chính tại Argentina, nguyên nhân và Bài học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài: Khủng hoảng kinh tế - tài chính tại Argentina: Nguyên nhân và Bài học
Đề cương chi tiết:
Lời mở đầu:
Vài nét về Argentina.
Nội dung nghiên cứu (Khủng hoảng vỡ nợ 1998 – 2001)
Mục tiêu: giải thích nguyên nhân và rút ra bài học.
Nội dung nghiên cứu
Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng(thập niên 90)
Thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế:
Tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh
Lập hệ thống tiền tệ kép: cố định tỷ giá 1Peso =1USD
=>có tác dụng tức thời, 3 năm sau nền kinh tế phát triển tốt, kiềm chế được lạm phát.
Tuy nhiên do tự do hóa quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn =>khủng hoảng xảy ra, bắt đầu từ cuối năm 1998 và lên đến đỉnh điểm năm 2001.
Nguyên nhân khủng hoảng
Sai lầm trong chính sách tiền tệ (chính sách tỷ giá cố định, tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh bán cho nước ngoài….)
Lợi dụng uy tín quốc gia vay nợ nước ngoài để bù đắp ngân sách và ổn định đồng nội tệ, khi không có đủ ngoại tệ để chi trả =>vỡ nợ.
Các cú sốc từ bên ngoài:
Khủng hoảng tiền tệ Châu Á 97 – 98
Đô la lên giá =>Peso lên giá theo =>ảnh hưởng xuất khẩu
Mêhico phá giá đồng Peso năm 94
Braxil phá giá đồng real năm 99
Bất ổn về hệ thống chính trị (tham nhũng,lãng phí, bộ máy yếu kém….)
Bài học cho Việt Nam
Duy trì tỷ lệ vay nợ nước ngoài ở mức an toàn (<40% GDP).
Xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nước ngoài.
Cải cách bộ máy quản lý: giải quyết tham nhũng, Cổ phần hóa ồ ạt và thất thoát, hàng rào thuế quan yếu kém….
Kết luận
LỜI MỞ ĐẦU
Liên tục trong những năm của thập niên 90, Argentina thực hiện chương trình tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, nổi bật là chương trình tư hữu hóa các xí nghiệp quốc doanh, bán chúng cho các ông chủ nước ngoài cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính phủ Argentina ổn định được giá trị đồng nội tệ, bước đầu đạt được sự tăng trưởng ngoạn mục trong thời gian sau đó. Vào thời gian đó, Argentina là một trong những “học trò xuất sắc” của IMF, được ngợi khen như một điển hình của sự thần kỳ mới.
Thế rồi đến tháng 12/2001 hệ thống ngân hàng Argentina sụp đổ, nhấn chìm một trong những trung tâm kinh tế năng động và thành công tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một đêm, đất nước này đã rơi vào cảnh đói nghèo, chỉ trong vòng 5 tuần 5 vị tổng thống lên chức xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức ùa xuống đường biểu tình….Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà IMF và WB áp dụng tại nước này từ những năm 1990. Người dân thì cho rằng các nhà lãnh đạo đất nước phải chịu trách nhiệm trực tiếp cho những nỗi khổ mà họ đang phải chịu đựng.
Vậy nguyên nhân thực sự của sự sụp đổ này là do đâu? Đó là một vấn đề lớn mà nhiều nhà nghiên cứu kinh tế đã tốn không ít giấy mực. Đây cũng là đề tài mà nhóm chúng tôi đưa ra để thảo luận, từ điển hình của Argentina mà rút ra những bài học cho Việt Nam trong giai đoạn hiên nay, khi Việt Nam cũng đang được xem là một thần kỳ mới, để rồi liệu rằng Việt Nam có vấp phải những sai lầm như Argentina đã từng vấp phải hay không ?
NỘI DUNG
Tình hình kinh tế Argentina trước khủng hoảng
Vào đầu thế kỷ 20, Argentina là một trong những quốc gia giàu nhất thế giới. Với tài nguyên giàu có, Argentina xuất khẩu mạnh thực phẩm và nguyên vật liệu.
Trong 4 thập kỷ từ sau thế chiến thứ hai đến cuối 80, Argentina áp dụng:
Chính sách phát triển hướng nội
Chính sách ngân sách mở rộng; thâm hụt ngân sách được tài trợ bằng in tiền.
(Từ 1976 đến 1989, hai cuộc siêu lạm phát và hai cuộc khủng hoảng ngân hàng xảy ra.
Nguyên nhân là do Argentina áp dụng chế độ độc tài quân sự trong nhiều năm, mà kết quả là ảnh hưởng một số vấn đề quan trọng về kinh tế. Trong quá trình đổi mới tổ chức quốc gia (1976-1983) đã được mua lại nợ rất lớn cho tiền mà sau đó đã bị mất trong các dự án khác nhau chưa hoàn thành. Đến cuối của chính quyền quân sự của quốc gia ngành công nghiệp đã bị ảnh hưởng nặng nề và thất nghiệp là lúc điểm cao nhất của nó.
Năm 1983, dân chủ ở trong nước đã được phục hồi với cuộc bầu cử tổng thống của Raúl Alfonsín. Chính phủ mới của kế hoạch bao gồm ổn định nền kinh tế của Argentina bao gồm cả việc tạo ra một loại tiền tệ mới, trong đó vốn vay mới được yêu cầu. Bang cuối cùng đã trở thành không thể trả lãi suất vay nợ này, nền kinh tế sụp đổ và lạm phát bắt đầu gia tăng. Năm 1989, Argentina của lạm phát đạt 200% / tháng, cao sang 3.000% mỗi năm. Tổng thống từ chức Alfonsin sáu tháng trước khi kết thúc nhiệm kỳ của ông, và Carlos Menem nhậm chức.
Những năm 1990:
Cuộc chiến chống lạm phát đã đi tốt, và Argentina đã bắt đầu phục hồi. Đầu năm 1991, dưới sự cai trị của Bộ trưởng Bộ Kinh tế Domingo Cavallo, điều hành các biện pháp cố định giá trị của tiền tệ Argentina tại Australes trên 10.000 đô la Mỹ.
Hơn nữa, mọi công dân có thể đi đến một ngân hàng và yêu cầu đối với bất kỳ số lượng tiền mặt trong tiền tệ trong nước sẽ được chuyển thành số tiền tương ứng của đô la, nhằm bảo toàn chuyển đổi này, các NHTW đã bị ràng buộc để giữ cho đồng đô la dự trữ của mình tại cùng cấp như là tiền mặt trong lưu thông. Mục đích ban đầu của các biện pháp như vậy là để đảm bảo sự chấp nhận của đơn vị tiền tệ trong nước, vì trong thời gian 1989 và 1990 đỉnh Siêu lạm phát, người dân đã bắt đầu để từ chối nó như thanh toán, đòi đô la Mỹ để thay thế. Chế độ này sau đó được qui định bởi một luật (Ley de Convertibilidad) mà phục hồi các Peso là đơn vị tiền tệ Argentina, với giá trị tiền tệ cố định của pháp luật với giá trị của đồng đô la Mỹ.
Như là kết quả của pháp luật chuyển đổi, lạm phát giảm đáng kể, ổn định giá được đảm bảo, và giá trị của tiền tệ được bảo tồn. Điều này tăng chất lượng cuộc sống cho nhiều công dân, những người bây giờ có thể đủ khả năng để đi du lịch nước ngoài, mua đồ dùng trong nước và nhập khẩu sản phẩm điện tử hoặc yêu cầu cho các khoản tín dụng bằng đô la với lãi suất rất thấp.
Nhưng Argentina đã phải trả các khoản nợ quốc tế, và nó cần thiết để giữ tiền vay. Tỷ giá hối đoái cố định được nhập khẩu giá rẻ, sản xuất một chuyến bay không đổi đô la ra khỏi đất nước và mất một tiến bộ của cơ sở hạ tầng công nghiệp của Argentina, dẫn tới sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp. Trong khi đó, chính phủ chi tiêu tiếp tục được cao và tham nhũng đã lan tràn. Nợ công của Argentina đã tăng trưởng rất nhiều trong những năm 1990, và các quốc gia cho thấy không có dấu hiệu thực sự của việc có thể phải trả nó.
II. Diễn biến
Mọi vấn đề bắt đầu từ khi tổng thống Carlos MENEM bắt đầu nhiệm kỳ năm 1989, nước này rơi vào tình trạng nợ nước ngoài nhiều, lạm phát lên tới 200%/tháng và năng suất giảm mạnh. Để vượt qua khủng hoảng kinh tế, chính phủ đã thực hiện các biện pháp sau:
Các chính sách đề ra:
Năm 1991 lập một hệ thống tiền tệ (currency board) với nhiệm vụ gắn chặt tỷ giá đồng peso với đồng dollar theo tỷ giá 1 đổi 1, và chỉ được phát hành vừa đủ tiền peso cho việc trao đổi trên thị trường. Đây là giải pháp nhằm khống chế lạm phát, nhưng đồng thời nó cũng hạn chế khả năng của ngân hàng trung ương trong việc hỗ trợ bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước và giúp đỡ các ngân hàng thương mại tăng cường tính thanh khoản.
Xây dựng hệ thống tiền tệ kép (bi-monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau giữa đồng peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân Argentina có quyền trả bằng bất kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình.
Tự do hóa hoàn toàn hệ thống ngân hàng, bao gồm việc tư nhân hóa gần như tất cả các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài.
Tự do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản - cả tài chính lẫn đầu tư trực tiếp - mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Tư nhân hóa các công ty nhà nước từ công ty hàng không đến công ty điện và Bưu điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ.
Loại bỏ gần như tất cả các hàng rào phi thuế quan, và cắt giảm thuế từ trung bình 45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000.
Từ chương trình tư hữu hóa hàng loạt xí nghiệp quốc doanh, tư hữu hóa ào ạt, nhất là việc bán chúng cho các ông chủ nước ngoài, bước đầu đã đem lại một lượng dự trữ ngoại tệ khá lớn cho quốc gia này.
Nguồn thu từ chương trình tư hữu hóa cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính phủ Argentina ổn định giá trị của đồng nội tệ. Tất cả điều này đã làm nền tảng cho các tăng trưởng ngoạn mục sau đó. Thêm vào đó, những thành tựu kinh tế và sự ổn định trong giá trị đồng nội tệ đã dẫn tới một hệ quả đương nhiên, đó là dòng vốn quốc tế chảy ồ ạt vào Argentina.
Những yếu tố đó khiến Argentina được ngợi khen như là một điển hình của sự thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận.
Đồng thời Chính phủ Argentina đã tận dụng uy tín đang lên của quốc gia để liên tục vay nợ nước ngoài. Đương nhiên mọi lý lẽ lúc bấy giờ đều được lý giải khá hợp lý. Cứ như thế các khoản nợ nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35% trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001). Khoản nợ nước ngoài này dẫn đến hậu quả tai hại là làm chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách, với suy nghĩ dù gì đi chăng nữa, chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào và cả... vay nợ nữa.
Những biện pháp này có tác dụng tức thời. 3 năm sau đó nền kinh tế phát triển tốt trong khi lạm phát giảm. Tuy nhiên sự tự do hóa quá nhanh và quá lớn đã để lại những mầm mống bất ổn. Cuối thập kỷ 90, đồng dollar Mỹ tăng giá dẫn đến việc đồng peso cũng tăng giá theo so với đồng tiền các nước đối tác thương mại nước này, làm giảm khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của Argentina
Năm 1994 khủng hoảng đồng peso Mexico làm ảnh hưởng đến nguồn vốn, mất nguồn tiền gửi ngân hàng, và khủng hoảng nghiêm trọng trong thời gian ngắn; một loạt chính sách cải cách để nâng đỡ hệ thống ngân hàng trong nước được đưa ra. Tỷ lệ tăng trưởng GDP thực tế được phục hồi nhanh chóng, đạt 8% vào năm 1997.
Năm 1997 cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á nổ ra và lan ra khắp các nước đang phát triển trên thế giới
Năm 1998, tình hình tài chính thế giới rối loạn do các vấn đề của Nga và nỗi lo lắng của các nhà đầu tư vào Brazil đã làm cho lãi suất trong nước tăng lên mức cao nhất trong hơn ba năm, làm giảm một nửa tỷ lệ tăng trưởng của nền kinh tế.
Năm 1999 Brazil buộc phải phá giá đồng real 29% và đây là một đòn đau cho Argentina vì Brazil là nước xuất khẩu chủ yếu của Argentina.
Từ những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong chi tiêu ngân sách. Do đã tư hữu hóa ào ạt các xí nghiệp quốc doanh trong thời gian trước đó, chính phủ giờ đây đã không còn nguồn thu nào khác ngoài thuế để bù đắp thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ liên tục phải trả nợ cho các hóa đơn vay nợ nước ngoài trước đây. Các điều kiện tồi tệ hơn vào năm 1999 khi GDP giảm 3%. Tổng thống Fernando DE LA RUA, người bắt đầu nhiệm kỳ vào tháng 12 năm 1999, đã tăng thuế và cắt giảm chi tiêu để giảm thâm hụt, làm GDP ở mức 2,5% năm 1999.
Tăng trưởng năm 2000 càng trở nên tồi tệ ở mức 0,8%. Cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều hoài nghi về khả năng trả nợ của chính phủ và giữ tỷ giá cố định theo đồng USD.
Nền kinh tế Argentina bắt đầu suy thoái, các điểm yếu trong nền kinh tế lộ ra dẫn đến cuộc tháo chạy ồ ạt của nhà đầu tư nước ngoài. Vì nền kinh tế tự do hóa hết mức, việc rút tiền diễn ra rất dễ dàng. Argentina bắt buộc phải cầu viện IMF và tổ chức này - với những chính sách kỳ quặc - đã làm tình hình trở nên cực kỳ tồi tệ.
Năm 2000 IMF đồng ý cho Argentina vay tiền với điều kiện nước này phải thắt chặt các chính sách tài chính, như không để tham hụt ngân sách và nâng lãi suất. Một điểm sáng đầu năm 2001 là IMF hỗ trợ 13,7 tỷ USD.
Những chính sách này dẫn đến những cuộc biểu tình và đình công khắp quốc gia. Cuối năm 2001 dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương chỉ còn đúng 2 tỷ. Tổng thống de la Rua quyết định người dân chỉ được rút tối đa 1000 đô la một tháng, chính sách này được duy trì cho đến đầu năm 2002. Cuối năm 2001 IMF ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do Argentina không đáp ứng được các đòi hỏi tài chính. Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi khiến vài chục người chết.
Cuộc khủng hoảng xảy ra
Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các chuyến bay của tiền từ nước này tăng lên. Năm 2001, người dân lo sợ điều tồi tệ nhất đã bắt đầu rút một khoản tiền lớn của tiền từ tài khoản ngân hàng của họ, biến peso thành đô la và gửi ra nước ngoài, gây ra một chạy trên các ngân hàng. Chính phủ sau đó ban hành một bộ các biện pháp (thông được biết đến như các corralito) mà hiệu quả bị đóng băng tất cả tài khoản ngân hàng cho mười hai tháng, cho phép chỉ có khoản tiền nhỏ tiền mặt được rút lại.
Do giới hạn này phụ cấp và các vấn đề nghiêm trọng nó gây ra trong những trường hợp nhất định, nhiều người Argentina trở thành điên và xuống đường của thành phố quan trọng, đặc biệt là Buenos Aires. Họ tham gia vào một hình thức phản kháng đã trở thành phổ biến được biết đến như cacerolazo (đập nồi và chảo). Các cuộc biểu tình đã xảy ra đặc biệt là trong giai đoạn 2001-2002. Lúc đầu, các cacerolazos được đơn giản chỉ ồn ào cuộc biểu tình, nhưng ngay sau họ bao gồm phá hủy tài sản, chỉ đạo thường xuyên tại các ngân hàng, công ty tư nhân nước ngoài, và đặc biệt là các công ty lớn của Mỹ. Nhiều doanh nghiệp hàng rào bằng kim loại được cài đặt bởi vì các cửa sổ và kính facades đã bị hỏng, và thậm chí bị bắt lửa cháy tại các cửa của họ. Bảng tin của các công ty như Coca Cola và những người khác bị đưa xuống của công chúng của những người biểu tình.
Đối chất giữa cảnh sát và người dân đã trở thành một cảnh chung, và cháy cũng đã được thiết lập trên đường Buenos Aires. Fernando de la Rúa tuyên bố tình trạng khẩn cấp (bất hợp pháp vì nó cần xác nhận của Quốc hội), nhưng điều này chỉ nên tồi tệ hơn tình hình, kết tủa các cuộc biểu tình bạo lực của 20 và 21 Tháng Mười Hai năm 2001 tại Plaza de Mayo, nơi những người biểu tình đụng độ với cảnh sát, đã kết thúc với một số người chết, và kết tủa sự sụp đổ của chính phủ. De la Rua cuối cùng đã chạy trốn khỏi Rosada Casa trong một chiếc trực thăng vào ngày 21 tháng 12.
Hiệu ứng của cuộc khủng hoảng
Nhiều công ty tư nhân đã bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng: tiêu biểu Aerolineas Argentinas - một trong những công ty bị ảnh hưởng nhất Argentina, phải ngừng tất cả các chuyến bay quốc tế cho các ngày khác nhau trong năm 2002. Các hãng hàng không đến gần phá sản, nhưng đã sống sót.
Hầu hết các mạng lưới trao đổi hàng hóa, khả thi như các thiết bị để phục các thiếu tiền mặt trong thời kỳ suy thoái này, sụp đổ như số lượng lớn người dân đã chuyển sang cho họ, tuyệt vọng để tiết kiệm như nhiều peso là họ có thể trao đổi cho các loại tiền tệ cứng như là một biện minh cho sự không chắc chắn.
Một số người vô gia cư mới và Argentina thất nghiệp hàng làm việc như cartoneros, hoặc thu gom các tông. Các dự toán năm 2003 của 30.000 đến 40.000 người scavenged các đường phố cho các tông để cung như thế ra một cuộc sống bằng cách bán nó cho các nhà máy tái chế. Phương pháp này chỉ chiếm một trong nhiều cách đối phó trong một đất nước mà vào thời đó bị một tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt ở gần 25%.
Nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng: Các sản phẩm Argentina bị từ chối tại một số thị trường quốc tế, trong lo sợ rằng họ có thể đến hư hỏng vì những điều kiện nghèo, trong đó họ đã tăng trưởng, và USDA đặt hạn chế về thực phẩm và thuốc Argentina đến lúc Hoa Kỳ.
Sản xuất của các kênh truyền hình đã buộc phải sản xuất thực tế cho thấy nhiều hơn bất kỳ loại hình khác cho thấy, bởi vì các nói chung rẻ để sản xuất so với các chương trình khác. Hầu như tất cả các chương trình giáo dục-truyền hình liên quan đã được hủy bỏ.
Du lịch cân bằng với Chile đảo do giá hạ xuống ở Argentina
Kể từ khi phó chủ tịch của De la Rua, Carlos Alvarez, đã từ chức vào năm 2000 mười, một cuộc khủng hoảng chính trị kéo tới. Thủ tục sau đây kế vị tổng thống được thiết lập trong Hiến pháp, tổng thống của Thượng viện Ramon Puerta nhậm chức, nhưng nhanh chóng từ chức, theo sau là chủ tịch của Phòng Hạ nghị sỹ, Eduardo Camaño. Hội Lập pháp (một cơ thể hình thành từ việc sáp nhập cả hai viện của Quốc hội) triệu tập với mục tiêu là tạo thêm một chính phủ hợp pháp tạm thời. Theo luật, các ứng cử viên được các thành viên của mình cộng với các Thống đốc của tỉnh, họ cuối cùng cũng bổ nhiệm Adolfo Rodríguez Saá, sau đó thống đốc của San Luis. Trong tuần cuối năm 2001, chính phủ lâm thời do Adolfo Rodríguez Saá, đối diện với impossibility thanh toán nợ cuộc họp, cài đặt sẵn trên phần lớn các khoản nợ công cộng, tổng cộng không ít hơn 93.000 triệu đô la
Đúng vào ngày 31/12 năm 2001, ngày cuối cùng trong năm, Eduardo Duhalde được quốc hội chỉ định làm tổng thống và ông này ngay tức khắc lên án chính sách tự do hóa nền kinh tế. E. Đuhale tuyên bố chấm dứt sự hoạt động của currency board và lên kế hoạch phá giá đồng tiền 29% (1 đổi 1.4 dollar) trong những giao dịch thương mại quốc tế chủ yếu. Những yếu tố khác trong chính sách kinh tế của tân tổng thống bao gồm: chuyển đổi tất cả các khoản nợ có trị giá trên 100,000 USD thành đồng peso, kiểm soát tài khoản ngân hàng và dòng chảy tư bản, áp dụng chính sách thuế mới lên dầu thô để bồi thường cho chủ nợ bị mất mát do không được Argentina trả nợ, cân bằng thu chi ngân sách và tái đàm phán nợ công.
Những chính sách này phát huy tác dụng. Argentina dần thoát khỏi khủng hoảng, nhưng rất chậm.
Tình hình kinh tế trở nên tồi tệ hơn đều là liên quan đến lạm phát và thất nghiệp trong năm 2002. Vào thời gian ban đầu 1-to-tỷ lệ 1 đã tăng vọt lên gần 4 pesos mỗi đồng đô la, trong khi lạm phát được tích lũy từ mất giá đã được khoảng 80%. (Cần lưu ý rằng những con số thấp hơn đáng kể đã được báo trước bởi hầu hết những nhà kinh tế chính thống vào thời điểm đó) Chất lượng cuộc sống mức trung bình của Argentina đã hạ thấp tỷ lệ; nhiều doanh nghiệp đóng cửa hoặc phá sản, nhiều sản phẩm nhập khẩu trở nên hầu như không, và tiền lương được trái như chúng đã được trước khi cuộc khủng hoảng.
III. Nguyên nhân của khủng hoảng
Vấn đề trước hết là chính sách hối đoái gắn đồng peso của Argentina với đồng USD, theo tỷ lệ một - một, do Bộ trưởng Kinh tế Domingo Cavallo đề xuất năm 1991. Khi ấy ông Cavallo hy vọng biện pháp này sẽ giải quyết được nạn siêu lạm phát và giúp thanh toán nợ nần của nhà nước. Lúc đầu tình trạng lạm phát đã giảm xuống đáng kể từ mức 2.00%/tháng. Tuy nhiên thay đổi này cũng đã khiến nhà nước Argentina không có được chính sách tiền tệ riêng. Theo Time, đến năm 1999 khi nước Brazil láng giềng phá giá đồng real, các nhà đầu tư và thương nhân nước ngoài nhận ra mình có thể dùng đồng USD mua được nhiều hàng hóa hơn ở Brazil và một số nước khác trong vùng so với ở Argentina. Vì thế đầu tư nước ngoài vào Argentina và ngành xuất khẩu của nước này (chủ yếu là hàng nông phẩm) đã sụt giảm thê thảm.
Yếu tố khủng hoảng thứ hai của Argentina gắn liền với việc chính phủ của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã vay nợ "thẳng tay" khiến tổng số nợ hiện nay lên đến 132 tỷ USD, tương đương 1/7 toàn số nợ của các nước đang phát triển. Mỗi khi bị lâm vào khủng hoảng, Argentina lại cần được vay nợ nên phải chấp nhận lãi suất cao (hiện Argentina phải trả lãi 15% cho khoản nợ của mình). Việc chính phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng. Nhiều công ty trong nước đã phải đóng cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán.
Vấn đề thứ ba bắt nguồn từ làn sóng tư hữu hóa trong những năm 1990, dưới thời tổng thống Menem, đã làm nhiều người mất việc. Và do phần lớn các công ty tư nhân hóa thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm nhiều người bị sa thải. Các khoản nợ của chính phủ cũng theo đó gia tăng vì thất thu từ nguồn thuế thu nhập đánh vào