Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng lớn nhất trên thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó,
39 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1845 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam.
Lời mở đầu
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là cuộc khủng lớn nhất trên thế giới kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất lịch sử của thế giới trong những năm 30 của thế kỷ XX, nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế nước Mỹ và lan rộng ra toàn cầu làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống tài chính và sự tăng trưởng kinh tế thế giới. Kể từ khi cơn lốc của cuộc khủng hoảng đi qua cuốn theo rất nhiều quốc gia vào vòng xoáy của nó, đến bây giờ cuộc khủng hoảng đã tạm qua đi, tình trạng thị trường đã trở nên ổn định hơn, quá trình khôi phục diễn ra mạnh mẽ. Mặc dù vậy các nước vẫn còn phải tiếp tục lịch trình tái cơ cấu và đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng tài mới (tàn dư của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) đó là khủng hoảng nợ công ở châu Âu đã và đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế đồng Ero nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung.
Đã có rất nhiều sách báo, các cuộc hội thảo quốc tế và khu vực đã viết và bàn về cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, và dường như vẫn chưa đủ và người ta vẫn buộc phải nghĩ về nó, viết về nó vì nó vẫn đang ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế xã hội và chính trị của mỗi quốc gia, mỗi khu vực và thế giới. Các tổ chức tài chính, các trung tâm nghiên cứu quốc tế cũng đưa ra các bài học và dự báo về nguy cơ của các cuộc khủng hoảng có thể xảy ra trong tương lai. Tuy không nằm trong tiểu điểm của cơn lốc khủng hoảng, nhưng những ảnh hưởng và tác động của nó ngày càng được cảm nhận rõ rệt ở Việt Nam, thể hiện qua những chỉ số giảm đi cụ thể về thương mại, đầu tư, tốc độ phát triển kinh tế và du lịch…
Hiện nay, chúng ta ngày càng nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc nghiên cứu khủng hoảng, triển vọng và tác động của nó trong bối cảnh đất nước đang tham gia ngày càng sâu rộng hơn và liên kết khu vực, hội nhập với quốc tế. Đó là chính là động lực thúc đẩy nhóm chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Khủng hoảng tài chính toàn cầu và bài học rút ra đối với Việt Nam”. Đề tài đã đặt vấn đề nghiên cứu cuộc khủng hoảng và chiều hướng diễn biến của nó, nhóm nghiên cứu đề tài tập trung vào phân tích những tác động của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng, đề từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về chính sách phát triển kinh tế và chính sách kinh tế đối ngoại.
Nội dung đề tài gồm ba phần:
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Phần 2: Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
Phần 3: Những bài học đối với Việt Nam
Sau một thời gian nghiên cứu và nỗ lực hoàn thành nhóm chúng tôi đã cố gắng phác thảo một bức tranh toàn cảnh về cuộc khủng hoảng và nêu ra một số đánh giá và ý kiến đóng góp của mình dựa trên cơ sở những nghiên cứu tiến hành trong đề tài. Song với kiến thức và thời gian có hạn, đề tài của chúng tôi vẫn còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp của cô giáo và các bạn để đề tài của chúng tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
Phần 1: Tổng quan về khủng hoảng tài chính quốc tế.
Khái niệm khủng hoảng tài chính quốc tế:
Toàn cầu hoá bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều ngu cơ trong đó có nguy cơ khủng hoảng toàn cầu. Sự thay đổi của các thị trường tài chính với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước, mỗi điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều dẫn tới khả năng khủng hoảng.
Khủng hoảng kinh tế là sự suy giảm của hoạt động kinh tế kéo dài và trầm trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế. Khủng hoảng kinh tế lên đến đỉnh điểm là nguyên nhân xảy ra khủng hoảng tài chính vì khủng hoảng kinh tế bị suy thoái, khủng hoảng sản xuất thừa sẽ làm gia tăng nhu cầu sử dụng tiền cho mục đích tiêu dùng hàng hóa. Khủng hoảng tài chính xảy ra khi nhu cầu tiền vượt quá nguồn cung của xã hội, nhu cầu về tiền của nhân dân hay của các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã gây ra sức ép cho hệ thống ngân hàng và tổ chức tài chính khiến cho ngân hàng và các tổ chức tài chính có thể sụp đổ. Khủng hoảng tài chính chỉ là một phần của khủng hoảng kinh tế nhưng khủng hoảng tài chính lại gây ra thiệt hại lớn nhất vì các nước có tự do thương mại, nguồn vốn được di chuyển qua những nước khác nhau nên khủng hoảng tài chính là yếu tố lây lan còn khủng hoảng kinh tế nó không có yếu tố trực tiếp lây lan.
- Khủng hoảng tài chính được hiểu là sự sụp đổ của thị trường tài chính, khiến nó không thể thực hiện được hai chức năng cơ bản nhất:
Thứ nhất, ổn định giá trị đồng tiền hoặc các tài sản tài chính như một phương tiện giao dịch, cất trữ tài sản.
Thứ hai, là trung gian chuyển vốn tiết kiệm vào những dự án đầu tư có hiệu quả nhất.
- Hệ quả của khủng hoảng tài chính là nền kinh tế bị đẩy ra khỏi quỹ đạo tăng trưởng tiềm năng, gây nên sự sụt giảm mạnh về sản lượng, việc làm, đi kèm với lạm phát, hoặc gây nguy cơ bùng nổ lạm phát.
- Có thể sơ bộ chia ra ba quan điểm chính về khủng hoảng tài chính:
+ Nhóm thứ nhất là những người theo chủ thuyết tiền tệ (Monetarists View), dẫn đầu là Friedman và Schwartz (1963). Họ cho rằng, khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng (banking panics), gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư. Họ bỏ qua những nguyên nhân thực như: sự sụt giảm hiệu quả của nền kinh tế, sự suy sụp của nhiều doang nghiệp. Vì vậy, theo họ sự can thiệp của Chính phủ là không cần thiết, và thậm chí có hại, bởi vì những doanh nghiệp muốn phải để cho bị phá sản lại được cứu vớt, gây nên sự gia tăng quá mức về cung tiền tệ và dẫn tới lạm phát.
+ Nhóm thứ hai là nhóm đối lập nhóm theo chủ thuyết tiền tệ là Keynesian View, đầu là Kindleberger (1978) và Misky (1972). Họ có quan niệm rộng hơn về khủng hoảng tài chính và tiền tệ, bao gồm sự sụt giảm hầu hết giá trị cổ phiếu, sự vỡ nợ của nhiều công ty tài chính và phi tài chính, nạn giảm phát đi kèm với sự rối loạn của thị trường ngoại hối. Những yếu tố này gây nên sự sụt giảm mạnh về tổng cầu đầu tư và tiêu dùng, vì thế cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Điều đáng nói là họ không đưa ra một đặc trưng rõ ràng về nguồn gốc của khủng hoảng, để làm tiền đề cho một chính sách kích thích có hiệu quả. Vì vậy, sự can thiệp của Chính phủ rất dễ dẫn đến lạm phát và trì trệ, như những người theo chủ thuyết tiền tệ đã lưu ý.
+ Nhóm thứ ba nhấn mạnh tới bản chất rủi ro của hoạt động tài chính, dẫn đầu là Stiglitz và Weiss (1981). Theo họ, hoạt động của hệ thống tài chính, đặc biệt là ngân hàng, chịu rủi ro cao, do ngân hàng đầu tư hay tổ chức cho vay thường không nắm rõ thông tin về khả năng sinh lợi và mức độ rủi ro của dự án đầu tư bằng cá nhân hay tổ chức đi vay; tức là những người chủ dự án. Sự khác biệt về thông tin (asymetry of information), hay sự thiếu minh bạch về thông tin dự án, khiến cho hệ thống tài chính có thể có vấn đề, bởi vì ngân hàng muốn ép lãi suất thực, cộng các phí dịch vụ cho vay tăng lên để bù cho rủi ro mất vốn có thể xảy ra. Nhưng điều này lại khiến cho những dự án có độ rủi ro cao nhất mới hy vọng có khả năng sinh lãi đủ cao để trả nợ (nếu may mắn thành công). Ngược lại, nếu đó là dự án của những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với độ rủi ro ít (mức sinh lãi thấp hơn), thì họ sẽ khó có thể được vay vốn. Vì vậy, khi lãi suất cho vay tăng lên thì:
Sẽ có một tỷ lệ lớn những chủ các dự án với độ rủi ro cao hơn (như đầu cơ vào bất động sản, chứng khoán thời bong bóng) đi săn lùng vốn vay. Trong khi đó, những doanh nghiệp vừa và nhỏ, với những nhà đầu tư cẩn trọng, sẽ bị loại ra khỏi danh sách các ứng cử viên. Người ta gọi đây là sự chọn lầm phải điều ngụy hại (adverse selection), theo Akerlof (1974).
Với những chủ dự án lớn đã vay được vốn, thì họ có xu hướng làm thay đổi bản chất dự án mang tính đầu cơ cao hơn (hoặc có vẻ quan trọng hơn, để Nhà nước không thể để cho bị thất bại). Do vậy, họ có thể giàu lên nhanh chóng, nếu việc đầu cơ thành công; và để ngân hàng chịu tích tụ những khoản nợ xấu; hay xã hội phải gánh vác tổn thất qua gánh nặng cứu trợ ngân sách nếu dự án bị thất bại. Người ta gọi đây là hiểm họa do sự vô trách nhiệm (moral hazard).
- Chính vì những lý do trên đây, những người theo trường phái kinh tế học thể chế (institutional economics) cho rằng hoạt động của ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, phải được giám sát hết sức cận trọng, nhằm hướng các giao dịch tới sự an toàn (Aoki 1991; Mc Kinmon 1991).
- Ngoài sự phân loại chức năng các ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và các quỹ đầu tư theo mức độ rủi ro của từng lĩnh vực đầu tư, cần phải có nhiều tổ chức trung gian khác làm chức năng giám sát và cảnh báo rủi ro. Chẳng hạn như các tổ chức xếp hạng (rating companies), mà chúng thường xuyên có sự thay đổi trạng thái tài chính của các tổ chức tài chính và phi tài chính. Sự xếp hạng này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng của các công ty trong việc gây quỹ từ thị trường vốn hay thị trường chứng khoán.
- Nhìn chung, cho dù thuộc trường phái kinh tế nào, thì vẫn có một sự nhất trí rằng, hệ thống tài chính cần phải được giám sát chặt chẽ, do tính phức tạp và rủi ro của hoạt động này. và việc thiếu sự quản lý, giám sát luôn dẫn đến bong bóng đầu cơ. Tuy nhiên, chỉ khi việc mất cân đối vĩ mô trỡ nên rất nghiêm trọng thì bong bóng đầu cơ mới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính và kinh tế trên quy mô lớn. Những nhà đoạt giải thưởng Nobel kinh tế đã phát biểu quan điểm này bao gồm: Paul Krugman, Edmund S.Phelps, Reinhard Selten, và Josep Stiglitz. Họ nhấn mạnh rằng, khủng hoảng có thể tránh được nếu có một hệ thống giám sát tài chính và cảnh báo rủi ro tốt. Vì vậy, họ cho rằng, không phải cứ tự nhiên mà có sự can thiệp của Chính phủ thông qua các gói kích thích, nếu như không hiểu rõ khiếm khuyết gì trong thể chế tài chính đã đẩy đến khủng hoảng.
- Vì vậy câu hỏi được đặt ra là, tại sao một thể chế giám sát tài chính, được coi là chuẩn mực nhất thế giới, làm nền tảng cho sự phát triển vững mạnh và giàu có của ngành ngân hàng và tài chính Mỹ trong suốt nhiều thập kỹ (kể từ các năm 1930), lại sụp đỗ nhanh chóng như vậy?
2. Một số dấu hiệu và các dạng của khủng tài chính quốc tế:
2.1 Dấu hiệu: Tuỳ theo mức độ và phạm vi, khủng hoảng tài chính thể hiện qua các điểm sau đây:
+ Sự giảm giá dây chuyền của các đồng tiền
+ Tỷ gia hối đoái tăng đột biến và dây chuyền
+ Lãi suất tín dụng gia tăng: lãi suất tăng kéo theo cầu tiền tệ, cầu tín dụng sụt giảm làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bị suy giảm.
+ Hệ thống ngân hàng bị tê liệt
+ Thị trường cổ phiếu sụt giá nhanh chóng
+ Các hoạt động kinh tế bị suy giảm
2.2 Các dạng khủng hoảng :
Khủng hoảng ngân hàng: rất hay gặp do ngân hàng là trung gian tài chính nhận tiền gửi của các thể nhân và pháp nhân để cho vay nên rủi ro dồn cả về mặt số lượng, thừoi hạn cũng như chủng loại tiền. Ngân hàng có thể lâm vào khủng hoảng do cho vay quá mức và không thu hồi lại được dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn cao làm ngân hàng không thể thanh toán các nghĩa vụ khi đến hạn. Ngân hàng là một hệ thống chặt chẽ nên khủng hoảng rất dễ lây lan và tạo khủng hoảng cả hệ thống ngân hàng. Trong trường hợp khủng hoảng các Ngân hàng thương mại thường có xu hướng siết chặt các điều kiện tín dụng hay nâng lãi suất để bù đắp rủi ro và kết quả là đẩy các doanh nghiệp – bạn hàng chủ yếu của ngân hàng vào tình thế khó khăn do thiếu nguồn tài chính để hoạt động.
Khủng hoảng nợ quốc gia: trường hợp một quốc gia vay nợ nước ngoài (vay chính thức, vay thương mại) qua nhiều, sử dụng không hiểu quả vốn nên không trả được nợ đúng hạn, lâm vào khủng hoảng nợ buộc phải xin hoãn nợ, xoá nợ thậm chí phải tuyên bố vỡ nợ (như trường hợp của CHDCND Triều Tiên). Khủng hoảng nợ xảy ra khá nhiều ( Argentina mới đây hay nhiều nước Châu Phi vừa qua) cùng với tiến trình toàn cầu hoá kinh tế do các điều kiện vay nợ nước ngoài trở nên dễ dàng hơn.
Khủng hoảng tiền tệ: là hiện tượng không đủ ngoại tệ để thanh toán các nghĩa vụ đến hạn hay đáp ứng nhu cầu cả thực tế và giả tạo do đầu cơ buộc chính phủ phải dùng quỹ dự trữ ngoại tệ để duy trì tỷ giá hối đoái hoặc phá giá nội tệ cho nội tệ mất uy tín nhanh chóng.
Khủng hoảng thị trường chứng khoán: với tư cách là đỉnh cao của kinh tế thị trường, thị trường chứng khoán rất nhạy cảm và phức tạp nên cũng dễ đổ vỡ. Khủng hoảng thị trường chứng khoán xảy ra khi giá chứng khoán biến động mạnh (“tuột dốc” hay “không thang” quá nhanh) ngoài tầm kiểm soát và do hiệu ứng “bầy đàn” làm cho chứng khoán bị “bán đổ, bán tháo” hay thị trường bị “đông cứng” vì không có giao dịch tạo ra sự thâm hụt giữa tiền (chứng khoán) vào so với tiền ra thị trường chứng khoán (quỹ chứng khoán)
Khủng hoảng cán cân thanh toán (cán cân vãng lai), cán cân vốn (còn được gọi là tài khoản) là cấu thành quan trọng nhất của tài khoản quốc gia: khủng hoảng xảy ra khi cán cân này thâm hụt quá nặng trong thời gian dài và không có nguồn bù đắp. Khủng hoảng cán cân vãng lai thường xảy ra khi cán cân thương mại (nhập trừ đi xuất) bị thâm hụt và khủng hoảng cán cân thanh toán khi tổng cácluồng ngoại tệ ra lớn hơn ngoại tệ vào (cán cân vãng lai, tài khoản vốn) gây nên thâm hụt nặng nề.
Khủng hoảng khả năng tính thanh khoản: nếu các loại khủng hoảng tài chính ở trên liên quan tới cả ba mặt số lượng, thời hạn và chủng loại tiền (và giống như tiền) thì khủng hoảng tình thanh khoản là sự mất cân đối chủ yếu liên quan tới thời hạn và chủng loại của “giống như tiền” và một số loại tài sản đặc thù.
Khủng hoảng ngân sách: NSNN thâm hụt nặng và kéo dài trong khi các nguồn thu bù đắp thâm hụt (in tiền, vay nợ trong và ngoài nước) bị hạn chế hay không thể lạm dụng hơn nữa nếu muốn tránh hậu quả như vỡ nợ hay bùng nổ lạm phát.
Trên đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Phần 2 : Khủng hoảng tài chính toàn cầu
Khủng hoảng tài chính toàn cầu là một dạng bậc cao của khủng hoảng tài chính, nó không dừng lại ở phạm vi một quốc gia hay khu vực mà lan tỏa và tác động đến toàn bộ các nền kinh tế trên thế giới.Khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế các nước, gây ra suy thoái kinh tế ở nhiều nơi và tăng trưởng kinh tế chậm lại ở hầu hết các nước khác.
Các quốc gia trên toàn thế giới, ít hay nhiều, đều đang phải chống chọi với cuộc khủng hoảng tài chính lớn nhất trong khoảng 80 năm trở lại đây. Nguyên nhân do đâu? Có từ bao giờ? Điều đáng ngạc nhiên là, “cơn bão” này đã được“dự báo” từ hơn một thế kỷ trước, trong bộ “Tư bản” bất hủ của Các Mác.Những người được sinh ra trong nửa sau của thế kỷ XX mới chỉ nghe và đọc trong sách báo về cuộc đại suy thoái 1929 - 1933 của chủ nghĩa tư bản. Chính vì vậy, có thể nói, hiện tại chúng ta đang sống trong một thời kỳ đặc biệt của lịch sử. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ đang tạo ra một làn sóng đe dọa nhấn chìm thế giới. Sự kiện này đã có tác động mạnh mẽ và làm thay đổi tư duy, ý thức của hàng triệu triệu người.
1. Diễn biến :
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage) làm đơn phá sản.
Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng nghìn đơn của người dân xin phá sản
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra dẫn đến suy giảm kinh tế từ Mỹ lan rộng ra toàn cầu.
Bắt đầu từ tháng 8/2007 do một công ty thế chấp nhà (American Home Morgage) làm đơn phá sản.
Tiếp đó là sự sụp đổ tài chính lớn, gần 20 ngân hàng phá sản mỗi ngày, hàng nghìn đơn của người dân xin phá sản
Thị trường chứng khoán của Mỹ và thế giới bị tác động mạnh, đồng loạt giảm sút.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 tại Mỹ lần này thực chất là biểu hiện rõ nét nhất của một quá trình “khủng hoảng” rất lâu trước đó. Điểm lại những mốc sự kiện chính trong chuỗi này để thấy khủng hoảng đã diễn ra như thế nào.
Năm 2002-2004: Giá cả ở các bang Arizona,California, Florida, Hawaii, và Nevada tăng trên 25% một năm. Sự bùng nổ nhà đất ở Mỹ bắt đầu. Năm 2005: Bong bóng nhà đất ở Mỹ vỡ vào tháng 08/2005. Thị trường bất động sản tạm gián đoạn trên một vài bang ở Mỹ vào cuối mùa hè năm 2005 khi tỷ lệ lãi suất tăng từ 1% lên đến 5.35% do có nhiều nhà kinh doanh bất động sản đã đánh giá thấp thị trường.
Năm 2006: Thị trường bất động sản tiếp tục suy giảm. Giá giảm, kinh doanh bất động sản, dẫn đến một lượng nhà dư thừa đáng kể. Chỉ số Xây dựng Nhà ở tại Mỹ hồi giữa tháng 08 giảm hơn 40% so với một năm trước đó.
Năm 2007: Kinh doanh bất động sản tiếp tục thất bại. Số lượng nhà tồn ước tính cao nhất từ năm 1989. Ngành kinh doanh bất động sản suy giảm với hơn 25 tổ chức cho vay dưới chuẩn tuyên bố phá sản. Gần 1,3 triệu bất động sản nhà ở bi tịch thu để thế chấp nợ, tăng 79% từ năm 2006.
Ngày 05/02 Công ty Mortage Lenders Network USA đứng thứ 15 trong số các nhà cho vay dưới chuẩn nhiều nhất ở Mỹ, với tổng dư nợ 3.3 tỷ đô la thời điểm quý 3 năm 2006, tuyên bố phá sản.
Ngày 02/04 New Century Financial, nhà cho vay dưới chuẩn lớn nhất Mỹ, tuyên bố phá sản.
Ngày 19/07: Chỉ số Dow Jones đóng cửa với mức 14.000 điểm, lần đầu tiên trong lịch sử.
Tháng 8: Khủng hoảng tín dụng toàn cầu, mà chính xác là chứng khoán dựa trên các khoản nợ thế chấp dưới chuẩn, được phát hiện trong các danh mục vốn đầu tư và quỹ trên khắp thế giới từ BNP Paribas cho đến Ngân hàng Trung Quốc. Nhiều nhà cho vay ngừng cho vay tín dụng mua nhà. Cục dữ trữ liên bang đã cho các ngân hàng vay 100 tỷ đô la với lãi suất thấp.
Ngày 16/08: Tập đoàn tài chính Countrywide, đơn vị cho vay thế chấp lớn nhất nước Mỹ, đã phải tránh phá sản bằng cách vay khẩn cấp 11 tỷ đô la từ một nhóm các ngân hang khác.
Ngày 17/08: Cục dự trữ liên bang đã phải hạ mức hệ số chiếu khấu 50 điểm cơ bản từ mức 6.25% xuống 5.75%.
Ngày 14/09: Ngân hàng Northern Rock (Anh) đã gặp vấn đề nghiêm trọng về khả năng thanh khoản liên quan đến khủng hoảng cho vay dưới chuẩn. Ngày 15–17/10: Liên minh các ngân hàng Mỹ được hỗ trợ bởi chính phủ thông báo lập một siêu quỹ trị giá 100 tỷ đô la để mua lại các chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà giá trị thị trường đã bị sụt giảm do khủg hoảng vay dưới chuẩn. Chủ tịch Cục dự trữ Liên bang Ben Bernake và Bộ trưởng Bộ tài chính Mỹ đều đưa ra những cảnh báo về mối nguy hiểm của việc vỡ bong bóng bất động sản.
Ngày 31/10: Cục dự trữ liên bang hạ lãi suất quỹ liên bang 25 điểm xuống 4,5% Tháng 11: Cục dự trữ liên bang bơm thêm 41 tỷ đô la cho các ngân hàng
vay với lãi suất thấp. Đây là lần xuất tiền lớn nhất của cục dự trữ liên bang kể từ 19 tháng 9 năm 2001 (50.35 tỷ đô la).
Năm 2008 với những mốc đáng nhớ sau:
Ngày 16/03: Bear Stearns bán lại cho JP Morgan Chase với giá 2 đôla một cổ phiếu để tránh phá sản. Cục dự trữ liên bang phải cung cấp 30 tỷ đô la để trợ giúp các khoản lỗ của Bear Stearn.
Ngày 17/07: Các ngân hàng lớn và các tổ chức tài chính trên thế giới đã báo cáo thua lỗ lên đến 435 tỷ đôla.
Ngày 07/09: Cục dự trữ liên bang dành quyền kiểm soát hai tập đoàn Fannie Mae và Freddie Mac
Ngày 14/09: Merrill Lynch được bán cho Bank of America với giá 50 tỷ$ Ngày 15/9: Lehman Bothers tuyên bố phá sản. Ngay sau đó, 3 loại chỉ số ở Mỹ bao gồm chỉ số Dow Jones, NASDAQ và S&P 500 sụt giảm mạnh nhất kể từ sau sự kiện 11/9/2001.
Ngày 17/09: Cục dự trữ liên bang Mỹ cho AIG vay 85 tỷ đô la để giúp công ty này tránh phá sản.
Ngày 19/09: Kế hoạch giải cứu tài chính của Bộ trưởng tài chính Paulson trị giá 700 tỷ đô la được công bố sau một tuần bất ổn trên thị trường tài chính và nợ tín dụng. Tuy nhiên, quốc hội Mỹ đã không thông qua bản dự thảo này.
Ngày 26/9: Ngân hàng Washington Mutual – ngân hàng tiết kiệm lớn nhẩt Mỹ được chính phủ tiếp