Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam

Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á

doc34 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Contents Mở đầu Các nước đang phát triển có đặc điểm chung về kinh tế, đó là mức sống thấp, tỷ lệ tích lũy thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Những đặc điểm này tạo thành một vòng tròn luẩn quẩn, tưởng như khó thoát ra được. Trong quá trình tìm kiếm con đường phát triển, có những nước tiếp tục rơi vào trì trệ, phát triển thụt lùi, xã hội rối ren, như một số nước châu Phi hay Nam Á. Có những nước đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, đưa đất nước thoát khỏi vòng luẩn quẩn, rút ngắn khoảng cách, thậm chí đuổi kịp các nước phát triển. Trong đó có Singapore. Từ một nước thuộc địa, nghèo nàn, thuộc thế giới thứ ba, Singapore đã phát triển trở thành con rồng châu Á và vươn lên hàng các nước phát triển trên thế giới. Với nhiều điểm tương đồng về điều kiện, bối cảnh lịch sử, vị trí địa lý… Singapore đáng là bài học để Việt Nam nghiên cứu trong quá trình định hướng con đường phát triển quốc gia. Để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn Kinh tế phát triển, nhóm chúng tôi xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Kinh nghiệm phát triển của Singapore và bài học cho Việt Nam” Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, đưa ra những nhận định ban đầu về kinh nghiệm phát triển của Singapore và đề xuất một số bài học từ Singapore có thể vận dụng cho Việt Nam; đồng thời, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho các thành viên trong nhóm, hoàn thành chương trình học tập môn Kinh tế vi mô tại trường Đại học Ngoại thương. Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, mô hình hóa, so sánh tĩnh… Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bố cục của đề tài bao gồm những nội dung sau: Phần 1: Tổng quan về Singapore Phần 2: Kinh nghiệm phát triển của Singapore Phần 3: Bài học cho Việt Nam Phần I. Tổng quan về Singapore 1.1. Giới thiệu chung Một mảnh đất vô danh tăm tối cuối bán đảo Mã lai buổi lập quốc, 45 năm trước, giờ đã vươn mình hoá thành Con Rồng kinh tế Singapore. Năm 1819, Singapore là vùng thuộc địa của Anh chuyên về mua bán, trao đổi hàng hóa. Năm 1963, Singapore gia nhập vào Liên bang Malaysia nhưng hai năm sau đã tách ra và trở thành một nước độc lập. Sau đó, Singapore đã phát triển thành một trong những quốc gia thịnh vượng nhất thế giới, trở thành đầu mối giao lưu thương mại quốc tế quan trọng (cảng biển Singapore là một trong những cảng biển có trọng tải lớn và tấp nập nhất thế giới). Thu nhập bình quân đầu người ở Singapore ngang tầm với các nước hàng đầu Châu Âu. Hình ảnh của Singapore khi vừa mới được tự trị, năm 1960, được một tờ tạp chí mô tả thật ảm đạm, như một vũng nước tù đọng, nghèo nàn và lạc hậu. Singapore gần như là một đảo quốc không có tài nguyên gi đáng giá, kể cả nước ngọt để uống và sinh hoạt cũng phải nhập khẩu, ngoài biển cả mênh mông nước mặn vây quanh.  Giờ đây, ai cũng phải công nhận rằng Singapore là một đất nước rất thành công trong phát triển kinh tế. Ngày nay, thu nhập bình quân đầu người của Singapore vượt trên con số 52.000 đô la Mỹ, xếp thứ 4 thế giới, với mức tăng bình quân đầu người gần 600 USD mỗi năm. Tốc độ phát triển đó đã đưa một nước Singapore thuộc các quốc gia kém phát triển, chỉ sau ba thập niên, vươn lên đứng trong những nước phát triển nhất.   Dù còn đó những lời bình khác nhau từ bên ngoài, thế giới phải công nhận họ là xứ sở trong lành. Theo nghĩa thực, đó là môi trường sạch sẽ và xanh tươi. Theo nghĩa rộng, đó là cuộc sống văn minh, kỹ cương và mức độ tham nhũng xếp loại thấp nhất thế giới. Ở đây, một nước Singapore nhiều dân tộc (Hoa, Ấn, Mã lai), nhiều tôn giáo (Khổng giáo, Thiên chúa giáo, Ấn độ giáo, Hồi giáo), nhưng xã hội ổn định, mọi người cùng tồn tại bên nhau và cùng đưa đất nước phát triển nhanh  trở thành Con Rồng châu Á, đạt những tiêu chí sống - tuổi thọ và thu nhập - hàng đầu thế giới. 1.2. Tình hình phát triển kinh tế Kinh tế Singapore là nền kinh tế phát triển, theo đường lối kinh tế tư bản. Sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế được giảm thiểu tương đối nhiều. Singapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính cao, giá cả ổn định. Singapore hầu như không có tài nguyên, nguyên liệu đều phải nhập từ bên ngoài. Singapore chỉ có ít than, chì, nham thạch, đất sét; không có nước ngọt; đất canh tác hẹp, chủ yếu để trồng cao su, dừa, rau và cây ăn quả, do vậy nông nghiệp không phát triển, hàng năm phải nhập lương thực, thực phẩm để đáp ứng nhu cầu ở trong nước. Singapore có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi. Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á. Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm gần 70% thu nhập quốc dân trong năm 2007). Kinh tế Singapore từ cuối những năm 1980 đạt tốc độ tăng trưởng vào loại cao nhất thế giới. Tuy nhiên từ cuối 1997, do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ xuất phát từ Thái Lan, đồng đô la Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm 1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do ảnh hưởng của sự kiện 11/9 gây suy giảm kinh tế thế giới và sau đó là dịch SARS, kinh tế Singapore bị ảnh hưởng nặng nề: Năm 2001 tăng trưởng kinh tế chỉ đạt -2,2%, 2002, đạt 3% và 2003 chỉ đạt 1,1%. Từ 2004, tăng trưởng mạnh: năm 2004 đạt 8,4%; 2005 đạt 5,7%; năm 2006 đạt 7,7% và năm 2007 đạt 7,5%. Singapore được coi là nước đi đầu trong việc chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Singapore đang thực hiện kế hoạch đến năm 2018 sẽ biến Singapore thành một thành phố hàng đầu thế giới, một đầu mối trọng yếu của nền kinh tế toàn cầu, và một nền kinh tế đa dạng, nhạy cảm kinh doanh. 1.3. Các ngành kinh tế trọng điểm - Công nghiệp: Các ngành công nghiệp chính: điện tử, hoá chất, dịch vụ tài chính, thiết bị khoan dầu, lọc dầu, chế biến và sản xuất cao su, chế biến thực phẩm và đồ uống, sửa chữa tàu, xây dựng giàn khoan ngoài khơi... - Dịch vụ: Bên cạnh một nền công nghiệp dựa vào công nghệ tiên tiến của thế giới, Singapore không quên tận dụng một mặt mạnh khác, đó là lĩnh vực dịch vụ, lĩnh vực đóng góp chủ yếu cho GDP của Singapore. Năm 2007, mức đóng góp này là 68,8%. Các ngành dịch vụ thế mạnh của Singapore là vận tải (logistic) và thông tin liên lạc, tài chính, du lịch. Năm 2008, ngành dịch vụ của Singapore cũng chịu nhiều tác động bởi khủng hoảng tài chính gây ảnh hưởng xấu lên các công ty tài chính, dịch vụ tài chính đi xuống. Không chỉ có vậy, doanh thu từ dịch vụ du lịch giảm khi người tiêu dùng trên thế giới cắt giảm chi tiêu. Lĩnh vực dịch vụ chỉ tăng trưởng 5,3% trong quý 3/2008 sau khi tăng trưởng 7,1% trong quý 2/2008. - Thương mại: Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, vì thế chính sách thương mại của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản thương mại. Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)... Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Singapore là 302,7 tỷ USD (theo trị giá FOB), kim ngạch nhập khẩu là 252 tỷ USD (theo trị giá CIF). Các mặt hàng xuất khẩu chính là: máy móc thiết bị (bao gồm máy móc thiết bị điện tử), hàng tiêu dùng, hóa chất, nhiên liệu khoáng. Các mặt hàng nhập khẩu chính là: máy móc thiết bị, nhiên liệu khoáng, hóa chất, thực phẩm. Thị trường xuất khẩu chủ yếu: Malayxia 12,9%, Hồng Kông 10,5%, Inđônêxia 9,8%, Trung Quốc 9,7%, Mỹ 8,9%, Nhật Bản 4,8%, Thái Lan 4,1%. Thị trường nhập khẩu chủ yếu: Malayxia 13,1%, Mỹ 12,5%, Trung Quốc 12,1%, Nhật Bản 8,2%, Đài Loan 5,9%, Indonexia 5,6%, Hàn Quốc 4,9%. Mặc dù Singapore đã giảm được sự phụ thuộc vào kinh tế Mỹ thông qua xuất khẩu sang các thị trường trong khu vực, song sự suy thoái của nền kinh tế lớn nhất thế giới này do cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn ở trong nước đã động tiêu cực đến ngành xuất khẩu của Singapore. Nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu của Singapore cho đến nay chịu nhiều tác động do lượng đơn đặt hàng từ những thị trường lớn giảm sút. - Đầu tư: Môi trường đầu tư: Singapore có một chính sách đầu tư rộng mở, qua đó, đất nước này đã chuyển thành công từ một hải cảng thương mại thành một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Chính phủ theo đuổi một chiến lược nhằm nâng cao Singapore thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ, sáng kiến và tri thức để có thể cạnh tranh với các nước xuất hàng giá rẻ và gia tăng tính toàn cầu hóa nền kinh tế. Nhà nước tạo nguồn động viên về tài chính, điều chỉnh luật lệ nhằm khuyến khích các hoạt động nghiên cứu và phát triển. Để thực hiện chính sách rộng mở, Singapore khuyến khích các công ty đa quốc gia tiến hành các hoạt động sản xuất và cung ứng dịch vụ, tạo điều kiện cho các chuyên gia nước ngoài đến cư trú và làm việc. Tại Singapore, các nhà đầu tư nước ngoài không bị đòi hỏi phải tham gia vào các hoạt động liên doanh hay nhượng quyền kiểm soát quản trị cho quyền lợi địa phương. Chính quyền Singapore không hạn chế hay làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước hay vì bất cứ lý do nào khác. Tuy nhiên vẫn có một số ngoại lệ đáng chú ý còn tồn tại trong lãnh vực sản xuất vũ khí, công nghiệp truyền thanh và thông tin nội địa. Ngoài ra, các cơ hội đầu tư cũng còn bị hạn chế trong việc sở hữu các tài sản tư. Tháng 4/2000, lĩnh vực viễn thông được tự do hóa hoàn toàn nhằm đảm bảo cho Singapore vị thế của một trung tâm thông tin và truyền thông quan trọng của châu Á. Những hạn chế về quyền tư hữu của người nước ngoài cũng được gỡ bỏ đối với ngành ngân hàng địa phương, ngành bảo hiểm và các công ty điện lực.  Từ năm 1978, Singapore đã gỡ bỏ mọi hạn chế về giao dịch chứng khoán nước ngoài và chuyển dịch vốn, không giới hạn việc tái đầu tư cũng như chuyển vốn và lãi về nước. Tình hình đầu tư nước ngoài vào Singapore: Theo Cục Thống kê Singapore, số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Singapore đã tăng gấp hơn 3 lần trong giai đoạn 1995-2005. Năm 2007, tổng số vốn nước ngoài đầu tư vào Singapore là 14,279 tỷ USD với 239 dự án, tăng 23,1% so với năm 2006, tạo công ăn việc làm cho 35.441 lao động. Những nước và vùng lãnh thổ đầu tư chủ yếu vào Singapore là Mỹ, Canada, Anh, Thuỵ Sỹ, Hà Lan, Na Uy, Đức, Nhật Bản, Malayxia, Đài Loan, Hồng Kông... Hầu hết vốn FDI vào Singapore tập trung trong các lĩnh vực dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, nhà hàng và khách sạn, sản xuất công nghiệp... Tổng số vốn nước ngoài hiện đang đầu tư tại Singapore (tính đến 12/2007): 214,5 tỷ USD. Tình hình đầu tư ra nước ngoài của Singapore Cùng với nỗ lực thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp Singapore cũng đẩy mạnh đầu tư ra bên ngoài, nhằm tạo "cánh tay bên ngoài" (external wing) cho Singapore. Các thị trường đầu tư chủ yếu của Singapore là các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam. Những lĩnh vực đầu tư chủ yếu là khai thác dầu khí, sản xuất công nghiệp, dịch vụ tài chính, bất động sản. Tổng số vốn Singapore đầu tư ra nước ngoài (tính đến 12/2007) là 111,2 tỷ USD. Phần II. Kinh nghiệm phát triển của Singapore 2.1. Phát triển Ngoại thương 2.1.1. Kinh nghiệm của Chính phủ 2.1.1.1. Bộ máy quản lý thương mại Singapore Bộ máy đầu não chịu trách nhiệm điều hành nền thương mại Singapore là Bộ Thương mại và Kỹ nghệ (Ministry of Trade and Industry – MTI). Hoạt động của cơ quan này nhằm tạo điều kiện mang lại sự thịnh vượng cho quốc gia thông qua sự ổn định và tăng trưởng kinh tế. Để thực hiện tốt chức năng của mình, MTI tiến hành việc hoạch định và phân tích kinh tế, điều hợp các chính sách kinh tế của chính phủ. Về mặt tổ chức, ngoài bộ máy hành chánh trực thuộc, MTI còn có trách nhiệm giám sát và hỗ trợ hoạt động cho các đơn vị dưới đây: - Cục thống kê; Cục dịch vụ thông tin; Sở cân đo; Hội đồng phát triển kinh tế (EDB); Hội đồng cấp giấy phép hoạt động cho các khách sạn; Hội đồng thành phố Jurong; Hội đồng khoa học và công nghệ quốc gia; Hội đồng tiện ích công cộng; Tập đoàn phát triển Sentosa; Hội đồng hiệu suất và định chuẩn Singapore; Hội đồng du lịch Singapore; Hội đồng phát triển thương mại Singapore (TDB). Vai trò xúc tiến thương mại của MTI thuộc về TDB, một trong những tổ chức có thế lực nhất về mặt thương mại tại đảo quốc này. Được thành lập vào năm 1983, TDB chịu trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh trên đấu trường thương mại quốc tế, bảo vệ quyền lợi kinh tế của đảo quốc, đồng thời giới thiệu sản phẩm của Singapore trên khắp thế giới. Bước vào thế kỷ 21, hội đồng này hướng tới 5 lãnh vực hoạt động sau đây: - Cổ xuý cho một nền thương mại tự do và công bằng tại các diễn đàn quốc tế. - Khai phá các thị trường mới cho hoạt động xuất khẩu của Singapore và mở rộng các lĩnh vực cung ứng - Biến Singapore thành một địa điểm hấp dẫn hơn nữa đối với thương nhân quốc tế - Phát triển và tăng cường hạ tầng cơ sở thương mại và kinh doanh - Giúp các xí nghiệp Singapore đầu tư ở ngoài nước Những thay đổi mạnh mẽ trên đấu trường thương mại thế giới trong các năm qua đã buộc TDB, với tư cách một cơ quan xúc tiến thương mại quốc gia, phải thay đổi chiến lược nhằm duy trì vị trí hàng đầu của Singapore trong nền kinh tế của khu vực. Như một thành phần của chiến lược cạnh tranh lâu dài, TDB đang nỗ lực biến Singapore thành một Trung tâm cung ứng dịch vụ hàng đầu tại châu Á. Trong những năm qua, TDB đã nói lên tiếng nói của mình tại các tổ chức thương mại quốc tế nhằm bảo vệ và nâng cao quyền lợi thương mại của Singapore, đồng thời tích cực tham gia vào hoạt động của các tổ chức thương mại đa phương hay khu vực như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) . Các nỗ lực song phương cũng được thực hiện với các tổ chức và chính phủ nước ngoài nhằm mục đích trao đổi thông tin, tự do hoá thương mại, tiến đến hợp tác đầu tư. Trong tương lai, TDB sẽ tiếp tục duy trì quan điểm tích cực trong việc cảnh báo cho các công ty của Singapore về những cơ hội làm ăn có thể tận dụng từ các thoả ước thương mại. Sự mở rộng hoạt động ngoài nước cũng được chú trọng triệt để. Các nỗ lực của tổ chức này nhằm tăng cường và đa dạng hoá hoạt động thương mại và đầu tư của Singapore tại hải ngoại nhắm chủ yếu vào các thị trường châu Á, Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Hiện nay TDB có hơn 30 văn phòng thương mại trên khắp thế giới, với chức năng quảng bá cho nền thương mại Singapore và quan trọng hơn cả là hỗ trợ các công ty Singapore trong giao thương quốc tế. Sự hỗ trợ này được thể hiện một cách nhuần nhuyễn và đa dạng thông qua các đoàn công tác, các hội chợ thương mại để tìm cơ hội hợp tác và đầu tư. Tính đến nay, đã có hơn 140 công ty trên thế giới đặt cơ quan đầu não của họ tại Singapore. Nhiều công ty khác đang toan tính làm việc này. Chính quyết định đặt trụ sở của họ tại Singapore đã góp phần biến đảo quốc này thành một trung tâm thương mại quốc tế. Về mặt hàng hải, Singapore là hải cảng bận rộn nhất thế giới, đồng thời là một trung tâm dịch vụ hậu cần và vận chuyển quốc tế. 2.1.1.2. Chính sách ngoại thương của Singapore * Ngoại thương và kiểm soát lạm phát Thương mại là nhân tố quyết định của nền kinh tế Singapore, trong đó, quan trọng nhất là ngoại thương. Chính sách ngoại thương của đảo quốc này có thể tóm lược trong hai yếu tố chính: - Bảo toàn và mở rộng thị trường, giảm thiểu các rào cản về thương mại. - Đảm bảo hoạt động của các quốc gia trong khuôn khổ những qui định do Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đề ra. Ngoài ra, chính sách thương mại của Singapore cũng phù hợp với một số thoả hiệp song phương và đa phương đã được ký kết giữa Singapore với một hay nhiều nước khác như chương trình Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Thoả ước thương mại tự do (FTAs), Thoả ước công nhận hỗ tương (MRAs)… Đầu năm 1999, nền kinh tế châu Á có dấu hiệu hồi phục, các hoạt động xúc tiến thương mại của Singapore trong vùng được đẩy mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại châu Á làm nảy sinh nhu cầu đa dạng hoá thị trường và các công ty của Singapore mở rộng tầm hoạt động sang những thị trường từ trước đến nay còn chưa được khai phá. Riêng với những thị trường cốt yếu trong nền thương mại Singapore như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản thì nước này nỗ lực củng cố vị trí của một trung tâm cung cấp và phân phối quốc tế. Trong những năm cuối thế kỷ 20, Singapore đã sử dụng hai phương tiện truyền thống trong thương mại là Hội chợ và các đoàn công tác để giúp các công ty ở địa phương tiếp cận được những cơ hội làm ăn thuận lợi. Theo Bộ trưởng Công Thương Singapore Lee Yi Shyan, Singapore là một thị trường nhỏ, với hơn 4,8 triệu dân, nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, phụ thuộc rất nhiều vào các thị trường lớn như Nhật và Mỹ…, nên khi những nền kinh tế này phát triển chậm lại, nhu cầu ít đi, đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này. Trong quý I/2009, GDP của Singapore tăng trưởng âm (-9,6%), nhưng sang quý II theo chiều hướng tốt hơn (chỉ còn -3,7%). Tăng trưởng kinh tế qua con đường xuất khẩu là sự chọn lựa chiến lược phát triển rất thành công của Singapore trong thập niên 1990 và được coi là một trong những nền kinh tế đã bước vào thế giới công nghiệp phát triển bằng con đường xuất khẩu. Họ đã có một chiến lược xuất khẩu rất thông minh với một lộ trình rõ ràng, đi từ xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, sang xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng lao động lớn, và cuối cùng là xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Sự thành công của họ dựa trên một yếu tố rất then chốt là duy trì một hệ số ICOR thấp, có nghĩa là đồng vốn đầu tư khả dụng vào nền kinh tế mang lại một hiệu quả cao đối với sự tăng trưởng của GDP. Nhưng tăng trưởng kinh tế bằng con đường xuất khẩu không phải là một sự chọn lựa dễ dàng. Bên cạnh nhiều thách thức khác, đẩy mạnh xuất khẩu đối với những nước đang phát triển, trong đó phần xuất khẩu nguyên liệu thô, khoáng sản, nông lâm hải sản chiếm tỷ trọng chủ yếu trong kim ngạch xuất khẩu, cũng đặt ra một vấn đề kinh tế vĩ mô là nguy cơ lạm phát gia tăng, đặc biệt là sự gia tăng giá cả lương thực thực phẩm vốn luôn luôn tạo áp lực nặng nề trên đời sống của người dân nghèo và trở thành một vấn đề mang tính chất xã hội và chính trị. Khắc phục những hệ quả không mong muốn của một chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu đối với giá cả trong nước không phải là điều dễ dàng, nếu không có một chính sách tỷ giá và một sự sử dụng dự trữ ngoại tệ quốc gia đúng đắn, phù hợp, một chiến lược công nghiệp hóa hiệu quả, một môi trường đầu tư cởi mở và trên hết là một ý chí tiết kiệm mạnh mẽ của toàn thể cộng đồng. Kinh nghiệm thành công của Singapore chỉ ra rằng đồng ngoại tệ kiếm được từ xuất khẩu khoáng sản, nguyên liệu thô, nông hải sản phải được dùng để mua máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp thâm dụng lao động (labour intensive) để có thể xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng lao động lớn. Những đồng ngoại tệ kiếm được từ việc xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng lao động lớn lại phải được tiếp tục sử dụng cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị, quy trình công nghệ cao cho những ngành công nghiệp thâm dụng công nghệ hay thâm dụng vốn (technology intensive hay capital intensive) để những ngành này, trong một tương lai không xa có thể xuất khẩu những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Khoảng cách thời gian của
Tài liệu liên quan