Đề tài Kỹ thuật sản xuất giống tôm biển nâng cao

Khi tôm chuyển từ tình trạng bình thường sang tình trạng sinh sản thì có sự thay đổi cơ bản về tương quan giữa  hormon kích thích sinh sản và hormon ức chế các quá trình này. Trong đó hormon ức chế sự sinh sản được sản  xuất, tích tụ và phóng thích từ cuống mắt của tôm. Như vậy cuống mắt tôm giống như một cái máy phát ra tín hiệu  hoá học ngăn cản sự sinh sản. Vì vậy, cắt cuống mắt tôm cũng giống như tháo gỡ cái máy phát ra tín hiệu này.  Nhờ thế mà sự phát triển của buồng trứng và đẻ trứng được giải tỏa. Buồng trứng phát triển liên tục và tôm đẻ. Nghĩa là sau khi cắt cuống mắt, tôm đẻ cấp tập vài lần (có khi tới 5 lần). Tuy nhiên chất lượng mỗi lần sinh sản sau  cũng giảm so với lần trước đó. Cho đến khi trên thực tế sự sinh sản của tôm không mang lại hiệu quả sinh học và  hiệu quả kinh tế thì phải loại bỏ chúng. Đến nay có khoảng 20 loài tôm khác nhau được áp dụng thủ thuật cắt  cuống mắt để kích thích sinh sản.

pdf28 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kỹ thuật sản xuất giống tôm biển nâng cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương IV Kỹ thuật sản xuất giống tôm biển nâng cao (Advanced technologies for shrimp larviculture) Cắt cuống mắt để kích thích tôm đẻ  Eyestalk ablation for inducing spawning Truy cập 10­03­05 An Giang online theo Nông Thôn Ngày Nay Trong tự nhiên, tôm cái trưởng thành giao vĩ ngay sau khi lột xác. Chúng chứa tinh của tôm đực trong nang lưu tinh  cho đến khi đẻ trứng. Sau đó, buồng trứng mới phát triển và tôm đẻ. Vì sao phải cắt cuống mắt thì tôm mới đẻ Khi tôm chuyển từ tình trạng bình thường sang tình trạng sinh sản thì có sự thay đổi cơ bản về tương quan giữa  hormon kích thích sinh sản và hormon ức chế các quá trình này. Trong đó hormon ức chế sự sinh sản được sản  xuất, tích tụ và phóng thích từ cuống mắt của tôm. Như vậy cuống mắt tôm giống như một cái máy phát ra tín hiệu  hoá học ngăn cản sự sinh sản. Vì vậy, cắt cuống mắt tôm cũng giống như tháo gỡ cái máy phát ra tín hiệu này.  Nhờ thế mà sự phát triển của buồng trứng và đẻ trứng được giải tỏa. Buồng trứng phát triển liên tục và tôm đẻ. Nghĩa là sau khi cắt cuống mắt, tôm đẻ cấp tập vài lần (có khi tới 5 lần). Tuy nhiên chất lượng mỗi lần sinh sản sau  cũng giảm so với lần trước đó. Cho đến khi trên thực tế sự sinh sản của tôm không mang lại hiệu quả sinh học và  hiệu quả kinh tế thì phải loại bỏ chúng. Đến nay có khoảng 20 loài tôm khác nhau được áp dụng thủ thuật cắt  cuống mắt để kích thích sinh sản. Phương pháp cắt cuống mắt Để cắt cuống mắt cho tôm, người ta thường đốt, kẹp hoặc thắt cuống mắt của tôm mà không cắt rời ngay để tránh  sự chảy máu (dịch cơ thể).  Ở Việt Nam, các nhà sản xuất tôm giống dùng dây cao su nhỏ (dây thun) thắt cuống mắt. Mắt bị thắt cuống có thể  rụng sau đó nhưng dịch cơ thể không bị thất thoát.  Ngay sau khi cắt cuống mắt, cần theo dõi chặt chẽ sự phát triển của buồng trứng. Khi thấy buồng trứng đang ở giai  đoạn IV thành thục, lập tức tôm được tách riêng vào bể đẻ. Hạn chế Tôm bị cắt cuống mắt chỉ đẻ 3­5 lần và đời sống sinh sản cũng chấm dứt. Trong khi tôm ở ngoài tự nhiên không bị  cắt cuống mắt và có thể đẻ nhiều lần hơn trong một khoảng thời gian dài, cho ra nhiều tôm con hơn. Vì vậy người  ta đã nghiên cứu làm sao để có thể kích thích tôm đẻ mà không cần cắt cuống mắt. Việc ứng dụng tiêm serotonin cho tôm cái đã được thực hiện và tỉ lệ tôm đẻ lần đầu là 35,4%, gấp 6 lần đối chứng.  Tỉ lệ tôm đẻ tiếp trong lần hai là 6,7%. Tính chung số tôm đẻ do được kích thích bằng serotonin gấp 7 lần so với đối  chứng. Tỉ lệ tôm đẻ nhờ tiêm serotonin thấp hơn tôm được cắt cuống mắt. Nhưng sau những lần đẻ dồn dập số tôm  cắt cuống mắt không thể tiếp tục được dùng để sản xuất tôm giống. Trong khi những chú tôm đã đẻ nhờ serotonin  vẫn tiếp tục sinh sản vì không bị tổn thương, nhờ thế mà người ta có thể kéo dài được tuổi thọ sinh sản của tôm. Kích thích tôm đẻ không cần cắt cuống mắt  Inducing shrimp spawning without eyestalk ablation Nông Nghiệp Việt Nam 3/2/2004 Viet Linh Một cách hình tượng, có thể coi cuống mắt của tôm cùng với một vài cấu trúc nội tiết khác như một hệ thống điều  tiết nước chảy từ một hồ chứa. Việc cắt cuống mắt tương tự như phá đập để lấy nước. Lúc đầu thì nước chảy ồ ạt  nhưng mức nước ở hồ sụt nhanh và mất khả năng điều tiết. Tôm cái bị cắt cuống mắt chỉ đẻ 3 ­5 lần và đời sống  sinh sản của nó chấm dứt ở đó. Tôm cái trong tự nhiên hẳn là không bị cắt cuống mắt và có thể đẻ nhiều lần hơn  trong một khoảng thời gian dài, cho ra nhiều tôm con hơn. Một thí nghiệm gần đây trên loài tôm he chân trắng, là  loài đến nay vẫn được cắt cuống mắt để kích thích sinh sản cho thấy, có thể kích thích đẻ mà không cần cắt cuống  mắt. Người ta tiêm Serotonin cho tôm cái và tỷ lệ tôm đẻ lần đầu là 35,4%, gấp 6 lần đối chứng. Tỷ lệ tôm đẻ tiếp  trong lần hai là 6,7. Tính chung số tôm đẻ do được kích thích bằng serotonin gấp 7 lần so với đối chứng.  Tất nhiên là tỷ lệ tôm đẻ nhờ tiêm serotonin là thấp hơn tỷ lệ tôm đẻ do được cắt cuống mắt. Nhưng sau những lần  đẻ dồn dập do được cắt cuống mắt thì những tôm như thế không thể tiếp tục được dùng để SX giống nữa. Trong khi  ấy, chắc chắn những tôm đã đẻ nhờ serotonin vẫn có thể tiếp tục sinh sản vì không bị những tổn thương bất khả  hồi. Kết quả nghiên cứu này rất khích lệ vì nhờ thế người ta có thể kéo dài được tuổi thọ sinh sản của tôm một cách  đáng kể. Phương pháp cấy tinh nhân tạo tôm sú Techniques of artificial fertilization for shrimp Sau khi tôm cái lột xác, tiên hành cấy tinh tốt nhất từ 12 đến 24 giờ sau. Bắt tôm mẹ lên khỏi mặt nước, dùng que  bông gòn se vào thelycum để hai mép thelycum hở ra, sau đó đưa tinh trùng vào. After the female molting 12­24 hours, move the newly­molted female out of water, use a stick with cotton­covered  tip to slightly insert into its thelycum in order to open this organ, and then put the sperm inside the opened  thelycum.  Có hai cách lấy tinh trùng từ tôm đực: There are two techniques for collecting sperms: (1) Dùng tay nặn lấy tinh trùng, sau đó tôm đực được nuôi vỗ lại, tinh trùng sẽ phục hồi sau 7 đến 10 ngày. Tuy  nhiên tinh trùng được lấy ra theo phương pháp nầy đễ bị nhão dẫn đến khó khăn trong quá trình cấy. Press manually to get sperms, then the male is reared for repeat maturation, its sperm sac will be full again after 7­ 10 days. However, with this technique, the sperms are frequently scattered resulting in difficult to inoculation. (2) Giết tôm đực để lấy tinh trùng. Theo phương pháp nầy tinh trùng không bị nhão. Kill the male to obtain sperms. With this technique, the sperm density is remained dense. Khi ôm cái lột xác mà chưa tìm được tôm đực, tinh trùng vẫn có thể cấy được sau 2­3 ngày. Trong trường hợp nầy,  hạn chế bắt tôm mẹ ra khỏi nước. Vì nếu tôm mẹ bị đem ra khỏi nước thường xuyên thì thelycum sẽ bị cứng lại  nhanh chóng, quá trình thụ tinh  nhân tạo sẽ trở nên khó khăn. When the female molting but the male is not available, sperms are still can be inoculated after 2­3 days. In this  case, it is limited to move the newly­molted female out of water because its thelycum will be harden more rapidly  resulting in difficult for artificial fertilization Mô tả ngắn về hệ thống tuần hoàn áp dụng trong các trại sản xuất tôm giống  gần Cần Thơ (Đồng bằng sông Cửu Long) (đang in) Brief description of the recirculation system used in backyard shrimp  hatcheries near Can Tho (Mekong delta, Vietnam) (in press) These hatchery systems were set up by Thach Thanh and Truong Trong Nghia based on technology developed at  the College of Aquaculture & Fisheries of the Can Tho University and the Artemia Reference Center of the Ghent  University (inspired from the ARC rotifer recirculation systems ­ see Suantika et al., 2001 and 2002) These hatchery systems were set up by Thach Thanh and Truong Trong Nghia based on technology developed at  the College of Aquaculture & Fisheries of the Can Tho University and the Artemia Reference Center of the Ghent  University (inspired from the ARC rotifer recirculation systems ­ see Suantika et al., 2001 and 2002) Seawater is made up of 120 g/l brine diluted with freshwater to 30 g/l; treatment of seawater in 20 m3 concrete  tanks with hypochlorite, neutralisation with thiosulphate, 48 hrs for aeration, after sedimentation for 24 hrs water is  pumped via a protein skimmer operated with ozone (small airbubble diffuser) to fill up culture tank with 2 m3 (half  volume); 24 hrs rest with aeration before stocking with nauplii ∙         1 unit consists of 4 tanks of 4 m3 each; each tank is connected with the central filter system via a protein  skimmer operated with ozone ∙         The filter system consists of 1 concrete tank subdivided in 3 compartments; water flows into the 1st  compartment in a submerged bin filled with activated carbon (neutralization of ozone – alternative for 2nd  protein skimmer with air); the 1st , 2nd and the 3rd compartments are filled with sand, coral, respectively gravel  and several air­water lifts operate these 3 compartments as submerged trickling filters; water flows from one  compartment to the other via bottom overflows; one 500 l plastic bin is mounted above the central reservoir and  acts as a dry trickling filter (filled with gravel substrate); the total volume of the filter system is 4 m3; for start up  procedure of the biofilter see further  Cho ăn Feeding  ∙         Initially, per culture tank 400 nauplii per liter are stocked in 2 m3 seawater (half tank volume) to which  Chaetoceros culture is added (up to 50,000 cells per ml) ∙         Chaetoceros is added 3 times per day and concentrations are gradually increased (115,000 in Z2, 200,000 in  Z3); 1g/m3 of a probiont mixture is added at the start and once every 2 days during the batch culture period  only; composition of the probiont mixture: Streptococcus faecium, Bacillus subtilis, B. licheniformis, baker’s  yeast, aspergillus, amylase, protease and lipase (BZT Aquaculture USA) ∙         At the time of molting from Z to M the compound feeds Frippak and Lansy are added at a rate of 3 feedings  of 1­4 g/m3 per day according to stage and survival. To M stage, water in the rearing tank has been filled to full  tank volume (4 m3). ∙         From M2 onwards umbrella Artemia is fed, from PL1 to PL5 Artemia nauplii and from PL5 to PL12 enriched  Artemia  (DHA Selco, 12hrs enrichment starting with instar II Artemia); consumption of 3 kg Artemia cysts per  million PL12 produced ∙         Water volume reaches 4 m3 by the time larvae reach PL stage (8 days from start of batch culture) at which  moment the tank is connect to the recirculation system (via circular filter tube that retains the Artemia nauplii  within the culture tank); recirculation starts at 300 % per day and eventually is increased up to 400 % per day  (when nitrite and ammonium test kit results reveals a decrease in water quality in the culture tank) ∙         Survival at harvest of PL12 averages 30 % (50% of batches obtain 60% survival) ∙         From PL10 water salinity is gradually lowered over the following 2 days to reach 10 g/l in the culture tank at  the harvest of PL12  ∙         50% of the water from the culture tank is re­used to make up new seawater by disinfection (see above) (50%  of rearing water is drained first to make up space of freshwater supplementation) ∙         complete disinfection of all tanks as well as the biofilter with hypochlorite upon starting a new batch. ∙         start new culture in batch: as  above). During batch culture period the biofilter is being activated (see next  item)  ∙         2 weeks start up period for the biofilter: 30 ppt disinfected/ozone­treated seawater + NMX inoculum (for the  1st set up of the biofilter, for consecutive runs substrate from other operational biofilter systems is used as  inoculum) + NH4Cl (as substrate for the bacteria); every other day extra addition of NH4Cl; from day 7 check of  ammonium level – if undetectable NH4Cl dose is doubled; 3 days later check of ammonium and nitrite level  (normally 0.01 and 0.02 mg/l, respectively) and new addition of NH4Cl; 24hrs later ammonium level should be  zero and the culture tanks can be connected to the biofilter = start of recirculation system ∙         Private hatchery of Thach Thanh operates 4 independent recirculation units, each one producing 1 million  PL12 per cycle (25 days total culture period);  6 cycles completed in the period Dec 03 – May 04 = 15 million  PLs produced; staff of 2 persons for the hatchery and one person operates the maturation unit (wild spawners,  cost early June 300 US $ per animal; 2 spawns only as nauplius quality is lower from 3rd spawn onwards);  PL12 are sold at 3.3 US $ per 1000 (versus 2 US $ per thousand in open­system hatcheries) as farmers prefer  the quality of the postlarvae produced in a recirculation system ∙         1500 open­system hatcheries in the whole Mekong delta, of which 170 and 30 recirculation units (in the  Mekong delta and Can Tho area, respectively – expertise provided by the Can Tho University) ∙         Farmers accept double price (60 VND/PL12) for PL produced by recirculation system (They call Can Tho  University PL) as compared to PL from batch system sourced form the batch system. ∙         High price for Can Tho is due to: (i) best PL quality (score > 80 by Watchana Sunthorn stress test metrhod);  (ii) more successful to harvest (70­80% successful harvest compared to 30­40% from batch system PL); (iii)  high survival at harvest (80% copared to 30­40% with PL from batch system); and less risk of WSSV infection  during growout period (in many cases, only ponds stocked with CTU PL survive in a heavy WSSV epidemic  areas) Your browser does not support inline frames or is currently configured not to display inline frames. [xem VIDE0  PL15]  References SUANTIKA, G.; DHERT, P.; NURHUDAH, M.; SORGELOOS, P. ­ 2000  High­density production of the rotifer Brachionus plicatilis in a recirculation system: consideration of water quality,  zootechnical and nutritional aspects.     Aquacultural Engineering 21: 201­214 SUANTIKA, G.; DHERT, P.; ROMBAUT, G.; VANDENBERGHE, J.; DE WOLF, T.; SORGELOOS, P.­2001 The use of ozone in a high density recirculation system for rotifers. Aquaculture, 201: 35­49. Chương II Dinh dưỡng tôm biển trong sản xuất giống  (Shrimp nutrition in larviculture) [Bài học 1]  [Bài học 2]  [Bài học 3] Bài học 1 Các chất dinh dưỡng thiết yếu: Các chất béo Tài liệu tham khảo: Tacon, A.G.J., 1987. Essential nutrients ­ Lipids. In: The nutrition and feeding of farmed fish and shrimp ­ A training  manual ­ 1. The essential nutrients. FAO, Brasil. 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33 3. Các chất dinh dưỡng thiết yếu ­ Chất béo [21] Chất béo là nhóm ngoại sinh của các chất tìm thấy trong mô thực vật và động vật, mà các chất nầy có tính chất  tương đối không tan trong nước, và tan trong các dung môi hữu cơ, như là ether, chloroform và benzen . 3.1. Chất béo  (Lipids) 3.1.1. Phân loại Các chất béo  có thể được chia thành 2 nhóm cơ bản tùy thuộc vào sự hiện diện hoặc không có alcohol glycerol  (xem sơ đồ). 3.1.2. Chức năng tổng quát Các chất béo là các nguồn quan trọng của năng lượng biến dưỡng (ATP). Thực vậy, các chất béo thì giàu năng  lượng nhất trong tất cả các loại chất dinh dưỡng: Giá trị năng lượng thô của chất báo, đạm và carbonhydrrat lần lượt  là 9,5; 5,6 và 4,1 kcal g­1. Theo khía cạnh nầy, các chất béo dinh dưỡng có thể được dùng để tiết kiệm đạm có giá  trị hơn cho sinh trưởng. Đặc biệt, các acid béo tự do dẫn xuất từ các triglyceride (các loại mỡ và dầu) là nguồn  nhiên liệu hiếu khí cho biến dưỡng năng lượng của mô cá. Các chất béo là các thành phần thiết yếu của tất cả màng và màng phụ tế bào (các loại chất béo có liên quan bao  gồm acid béo không no mức độ cao chứa các phosphorlipid và các sterol esther). Các chất béo đóng vai trò như là vật chuyên chở sinh học cho sự hòa tan các sinh tố tan trong chất béo như là A,  D, E và K. Các chất béo là nguồn của các acid béo thiết yếu, mà đến lượt nó thì cần thiết cho sự duy trì tính nguyên vẹn của  màng tế bào để bảo đảm cho sự vận chuyển chất béo tối ưu (bám vào các phospholipid như là các tác nhân nhũ  tương hóa), và là các tiền chất của các nội tiết tố prostaglandin. [22] Các chất béo được tin là có một vai trò như là nâng đỡ / đệm cho các cơ quan quan trọng của cơ thể, và giúp  duy trì sự nổi độc lập. Các chất béo là nguồn của các steroid thiết yếu, mà đến lượt chúng lại cho thấy một phạm vi rộng các chức năng  sinh học quan trọng (có nghĩa là, sterol cholesterol có liên quan trong sự duy trì các hệ thống màng, cho vận  chuyển các chất béo, và như là một tiền chất của sinh tố D3, các acid mật, và các nội tiết tố steroid ­ các androgen,  các estrogens, các nội tiết tố tuyến thượng thận, và các corticosteroid). Theo quan điểm kỹ thuật về dinh dưỡng, các chất béo tác động như là chất bôi trơn cho đường đi của thức ăn qua  khẩu phần thức ăn viên, như là các chất làm giảm độ bụi bặm của thức ăn, và đóng vai trò trong vị ngon của thức  ăn. 3.2. Mỡ và dầu (Fats and oils) Nhiên liệu hoặc năng lượng có thể được chứa trong thực vật như là tinh bột, và trong động vật như là glycogen,  nhưng nó cũng có thể được chứa trong cả thực và động vật ở một dạng cô đặc hơn như là mỡ và dầu. Ở thực vật,  mỡ và dầu được tạo thành từ carbonhydrate (như là ở thực vật, khi hạt giống chín muồi, lượng tinh bột của chúng  giảm xuống trong khi hàm lượng mỡ tăng lên). Ở động vật, mỡ cũng cũng có thể được tạo thành từ carbonhydrate  (nghĩa là khi vỗ béo một con heo với thức ăn chứa phần lớn carbonhydrate). Tuy nhiên, không giống như thực vật,  động vật cũng có thể tích lũy mỡ trong cơ thể từ mỡ ăn vào. Sự khác nhau duy nhất giữa mữ và dầu là chất sau ở  thể lỏng dưới nhiệt độ trong phòng, trong khi mỡ thì ở dạng sệt. 3.2.1. Thành phần Mỡ và dầu thường hiện diện trong thức ăn và trong mỡ tích lũy ở hầu hết động vật dưới dạng các triglyceride, là các  ester của các acid béo và glycerol. Mỡ và dầu tự nhiên được cấu tạo do các triglyceride hỗn hợp, trong đó glycerol được ester hóa với các loại acid béo  khác nhau, nghĩa là các acid béo R1, R2 và R3, do đó: Không có mỡ hoặc dầu tự nhiên tìm thấy trong thiên nhiên gồm có các triglyceride giống nhau. Có thể thấy rằng  đơn vị cơ bản và biến đổi của các triglyceride, là thành phần acid béo, đến lượt nó sẽ ảnh hưởng đến tính chất vật  lý và hóa học của mỡ và dầu. 3.2.2. Cấu trúc và phân loại acid béo Hơn 40 acid béo khác nhau được biết có trong tự nhiên. Tất cả chúng đều có thể đựợc thể hiện bằng công thức  tổng quát:  CH3(CH3)nCOOH trong đó: n= 0 ở acid Acetic; n=1 ở acid Propionic; n= 2 ở Butyric acid... đến n= 24 (trong đó n thường là số chẵn).  [23] Hầu hết các acid béo có trong tự nhiên chứa một nhóm COOH và một chuỗi carbon (C) thẳng không phân  nhánh, mà chuỗi nầy có thể không chứa nối đôi (acid béo bão hòa = saturated fatty acid), chứa 1 nối đôi (acid béo  không no 1 nối đôi = mono­unsaturated fatty acid), hoặc chứa hơn 1 nối đôi (acid béo không no nhiều nối đôi =  polyunsaturated fatty acid = PUFA). Hệ quả là mức độ không bão hòa sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các tính chất vật lý  của các mỡ được tạo thành, như là một cách tổng quát các acid béo không no thì phản ứng hóa học nhanh hơn và  có điểm nóng chảy thấp hơn các acid béo bão hòa tương ứng. Thí dụ về các acid béo bão hòa và không no được  liệt kê dưới đây: Acid béo Cấu trúc Viết tắt* Bão hòa Acid Butyric CH3(CH2)2COOH 4:0 Acid Caproic CH3(CH2)4COOH 6:0 Acid Capric CH3(CH2)8COOH 10:0 Acid Lauric CH3(CH2)10COOH 12:0 Acid Myristic CH3(CH2)12COOH 14:0 Acid Palmitic CH3(CH2)14COOH 16:0 Acid Stearic CH3(CH2)16COOH 18:0 Không no** Acid Palmitoleic CH3(CH2)5CH=CH(CH2)7COOH 16:1n­7 Acid Oleic CH3(CH2)7CH=CH(CH2)7COOH 18:1n­9 Acid Linoleic CH3(CH2)4CH=CHCH2CH=CH(CH2)7COOH 18:2n­6 Acid Linolenic CH3(CH2)CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CH(CH2)7COOH 18:3n­3 Acid Arachidonic CH3(CH2)4CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CH(CH2)7COOH 20:4n­6 Acid Eicosapentaenoic CH3CH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CH(CH2)3COOH 20:5n­3 Acid Docosahexaenoic CH3CH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CHCH2CH=CH(CH2)2COOH 22:6n­3 * Số lượng carbon (C) : số lượng nối đôi n ­ vị trí của nối đôi thứ nhất đếm từ nhóm methyl (CH3) ở đầu của acid béo * Ở thể lỏng dươid nhiệt độ trong phòng Dựa vào cơ sở phân loại trên, các PUFA có thể được chia thành 3 họ chính: họ (n­9) oleic, họ (n­6) linoleic và họ  (n­3) linolenic, các tên của họ tượng trưng cho thành viên chuỗi ngắn nhất trong nhóm, với các thành viên trong họ  khác được dẫn xuất từ 3 nhóm cơ bản nầy. 3.2.3. Sinh tổng hợp acid béo Ngoại trừ loài ốc trên cạn (Cepaea nemoralis), các động vật không có khả năng tổng hợp trong cơ thể sống các  acid béo có nối đôi ở vị trí n­6 (họ linoleic) và họ n­3 (họ linolenic); chỉ có thực vật là có khả năng nầy. Tuy nhiên,  đa số động vật đều có khả năng tổng hợp các acid béo bão hòa có chuỗi chẵn trong