Sự ra đời và phát triển của các tổ chức tín dụng đặc biệt là hệ thống Ngân hàng đã làm cho nền kinh tế phát triển một cách hoàn hảo hơn. Nó như một chiếc “bánh răng” kết nối các chủ thể làm cho nền kinh tế hoạt động một cách ăn khớp và nhịp nhàng. Trong đó cơ sở để phát triển và phát huy tác dụng của các tổ chức tín dụng, hệ thống Ngân hàng đó là lãi suất tín dụng. Lãi suất là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự sống còn của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng và vì vậy nó có tác động vô cùng to lớn đối với mỗi nền kinh tế
Lãi suất đóng vai trò là một công cụ gián tiếp điều tiết vĩ mô được Ngân hàng Trung Ương sử dụng để thực hiện những mục tiêu chính sách tiền tệ của mình đó là ổn định giá cả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo công ăn việc làm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các nước khác đã vận dụng nó để phục vụ yêu cầu của mình và khả năng vận dụng chính sách lãi suất đến đâu được phản ánh thông quả của những lần điều chỉnh lãi suất. Trong phạm vi học tập về lãi suất và sự chỉ bảo của thầy cô giáo em xin được trình bày đề tài : “Lãi suất tín dụng ngân hàng và sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
49 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lãi suất tín dụng ngân hàng và sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Sự ra đời và phát triển của các tổ chức tín dụng đặc biệt là hệ thống Ngân hàng đã làm cho nền kinh tế phát triển một cách hoàn hảo hơn. Nó như một chiếc “bánh răng” kết nối các chủ thể làm cho nền kinh tế hoạt động một cách ăn khớp và nhịp nhàng. Trong đó cơ sở để phát triển và phát huy tác dụng của các tổ chức tín dụng, hệ thống Ngân hàng đó là lãi suất tín dụng. Lãi suất là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến sự sống còn của các tổ chức tín dụng, hệ thống ngân hàng và vì vậy nó có tác động vô cùng to lớn đối với mỗi nền kinh tế
Lãi suất đóng vai trò là một công cụ gián tiếp điều tiết vĩ mô được Ngân hàng Trung Ương sử dụng để thực hiện những mục tiêu chính sách tiền tệ của mình đó là ổn định giá cả, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và tạo công ăn việc làm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng như các nước khác đã vận dụng nó để phục vụ yêu cầu của mình và khả năng vận dụng chính sách lãi suất đến đâu được phản ánh thông quả của những lần điều chỉnh lãi suất. Trong phạm vi học tập về lãi suất và sự chỉ bảo của thầy cô giáo em xin được trình bày đề tài : “Lãi suất tín dụng ngân hàng và sự điều hành lãi suất tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
I. KHÁI NIỆM, PHÂN LOẠI LÃI SUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm
Trong nền kinh tế hàng hoá đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường do đặc điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh luôn xảy ra tình trạng tại cùng một thời điểm có chủ thể kinh tế có nhu cầu về vốn, bổ sung vốn đồng thời lại có chủ thể tạm thời dư thừa vốn mà họ lại muốn những đồng tiền dư thừa của họ không phải là những “đồng tiền chết” , nó phải là những đồng tiền biết “sinh sôi”, họ muốn cho vay để có lãi. Như vậy để đảm bảo tính linh hoạt, hiệu quả của đồng vốn thì các tổ chức tín dụng và hệ thống Ngân hàng dần dần phát triển, hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu tất yếu này và cơ sở để cho đồng vốn có thể luân chuyển một cách kịp thời, chính xác từ người “thừa” vốn sang người “cần vốn” là lãi suất.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Về cơ bản lãi suất là tỷ lệ phần trăm tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu.
Một cách ngắn gọn ta có thể hiểu lãi suất chính là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất phải được trả bởi lẽ: người đi vay đã sử dụng vốn vay để phục vụ nhu cầu sinh lợi trong sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng của mình. Việc người cho vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác có nghĩa là anh ta đã hy sinh quyền sử dụng tiền ngày hôm nay của mình. Đánh đổi cho sự chuyển quyền đó là quyền mà người cho vay được hưởng thêm 1 khoản trên, được trả lãi suất
2. Phân loại lãi suất
2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất chia làm 3 loại
+ Lãi suất ngắn hạn: được áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm.
+ Lãi suất trung hạn: áp dụng với các khoản tín dụng trung hạn. Thời gian phụ thuộc vào từng nước có thể từ 1-3 hoặc 5 năm.
+ Lãi suất dài hạn: áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn, có thời gian trên 5 năm trở lên.
2.2.Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
Lãi suất được chia làm 2 loại:
+ Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất được tính theo giá trị của đồng tiền tại thời điểm nghiên cứu.
+ Lãi suất thực: là lãi suất được tính theo khối lượng hàng hoá mà người cho vay nhận được sau một thời hạn cho vay. Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế đã được Fisher phát biểu qua biểu thức sau:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
hoặc có thể viết:
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
2.3.Căn cứ vào mức ổn định lãi suất
Lãi suất được chia làm 2 loại:
- Lãi suất cố định: là người gửi tiền và người vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả. Nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời gian nào đó dù các loại lãi suất khác thay đổi như thế nào. Với mức lãi suất cố định được ấn định vay trò của Ngân hàng không được phát huy hết, các Ngân hàng phải chủ động tìm kiếm khách hàng – những người chấp nhận với mức lãi suất đã được ấn định.
- Lãi suất thả nổi: là lãi suất có thể thay đổi nền móng có thể báo trước hoặc không báo trước. Lãi suất thả nổi có lợi cho cả 2 bên, nếu khi nhận và trả tiền đều tính theo cùng mức lãi suất chung là lãi suất hiện tại.
2.4.Căn cứ vào phương pháp tính
Lãi suất được chia làm các loại sau:
- Lãi suất đơn: là lãi suất được tính một lần trên số vốn gốc cho suốt kỳ hạn vay.
Công thức tổng quá để tính lãi đơn:
I = C0 .i. n
I: số tiền lãi
C0: vốn gốc
i: lãi suất
n: số thời kỳ gửi vốn.
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất. Loại lãi suất này thường được áo dụng cho các khoản tín dụng ngắn hạn và việc trả nợ được thực hiện một lần khi đến hạn.
VD: Khoản vay 100.000đ, lãi 12%/năm, thời hạn vay 3 năm
Khoản tiền lãi thu được: I= 100.000 x 12% = 12.000đ
- Lãi suất gộp: Lãi suất gộp là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư của lợi tức thu được trong thời hạn sử dụng tiền vay. Nó được áp dụng cho các khoản đầu tư có nhiều kỳ hạn thanh toán trong đó lãi của kỳ trước được nhập vào vốn gốc để tính lãi cho kỳ sau.
C= C0 . (1 + i)n
C: số tiền thu được theo lãi góp sau n kỳ.
C0: vốn gốc ban đầu
i: Lãi suất
n: thời kỳ gửi vốn
- Lãi suất hoàn vốn: là lãi mà các nhà kinh tế muốn ám chỉ khi họ dùng thuật ngữ lãi suất, nó là một số đo chính xác nhất của lãi suất.
Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thu nhập nhận được trong tương lai theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó.
Lãi suất hoàn vốn được xây dựng trên cơ sở khái niệm giá trị hiện tại, khái niệm về giá trị hiện tại được dựa trên quan điểm cũng có nghĩa chung là: một đô la thanh toán cho bạn sau đây 1 năm có ít giá trị đối với bạn so với 1 đô la hôm nay vì bạn có thể gửi đồng đô la hôm nay vào một tài khoản tiết kiệm và sẽ có hơn 1 đô la sau 1 năm.
Chẳng hạn nếu lãi suất là i, số tiền bạn nhận được sau 1 năm là
(1+i) (C0 = 1$)
Giá trị hiện tại của 1 đồng bạn nhận được sau 1 năm là x:
1= x (1+i)
x= 1/1+i
Một cách tổng quát: giá trị hiện tại của 1 đồng bạn nhận được dây n năm với lãi suất i là: 1
(1+i)n
Khái niệm giá trị hiện tại cho phép xây dựng được giá trị hiện tại của các khoản đầu tư khác tại mức lãi suất đơn cho trước trên cơ sở đó có thể so sánh giá trị giữa chúng.
Ngược lại nếu biết trước giá trị tương lai và giá trị hiện tại của một khoản đầu tư, chúng ta có thể xác định được mức lãi suất i tương ứng phản sánh mức sinh bình quân (lãi suất hoàn vốn) của một khoản đầu tư và là cơ sở để so sánh mức sinh lợi của các khoản đầu tư khác.
2.5.Căn cứ vào các loại hình tín dụng
- Lãi suất được chia là 4 loại: tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng, tín dụng Ngân hàng.
+ Lãi suất tín dụng thương mại: áp dụng khi các doanh nghiệp cho vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, nó được tính như sau:
LSTDTM= giá cả hàng hoá bán chịu - giá cả hàng hoá bán trả tiền ngay x 100%
giá cả hàng hoá bán chịu
Lãi suất này được tính bao hàm trong một giá cả hàng hoá bán chịu.
+ Lãi suất tín dụng Nhà nước: được áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu, loại lãi suất này có thể do Nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng, vào các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của Nhà nước. Hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu Nhà nước. ở Việt Nam hiện nay Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước.
+ Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng thường cao hơn lãi suất tín dụng Ngân hàng và lãi suất tín dụng Ngân hàng Nhà nước.
* Lãi suất tín dụng Ngân hàng:
Tín dụng Ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế Ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức trung gian, vì vậy trong quan hệ tín dụng với các nhà doanh nghiệp, cá nhân, Ngân hàng vừa đi vay và đồng thời là người cho vay. Tín dụng Ngân hàng được cung cấp dưới hình thức tiền tệ và chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. Với tư cách là người đi vay, Ngân hàng nhận tiền gửi của các nhà doanh nghiệp và cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu. Với tư cách là người cho vay, Ngân hàng cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong hoạt động của hệ thống Ngân hàng, lãi suất tín dụng được áp dụng nhằm thu hút tiền gửi và cho vay. Lãi suất tín dụng Ngân hàng được áp dụng trong hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng TW cho các Ngân hàng và trong quan hệ giữa các Ngân hàng với nhau trong quan hệ giữa các Ngân hàng với nhau, với công chúng và doanh nghiệp để hiểu rõ lãi suất tín dụng Ngân hàng ta hãy xem khái niệm lãi suất trong các quan hệ này.
+Lãi suất tiền gửi: là lãi suất cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi.
+ Lãi suất tiền vay: là lãi suất mà người đi vay phải trả cho Ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả Ngân hàng. Về nguyên tắc lãi suất tiền vay bình quân phải lớn hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân. Để đảm bảo lợi ích của Ngân hàng và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác cũng như mức rủi ro khác.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các khách hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Như vậy nếu xét trong quan hệ giữa Ngân hàng với người vay chiết khấu lãi suất chiết khấu được trả trước cho Ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất thường.
+ Lãi suất tái chiết khấu:
áp dụng khi Ngân hàng TW tái cấp vốn cho các Ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại nhiều thương phiếu hoặc giấy tờ có giá trị ngắn hạn chưa đến hạn của các Ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi Ngân hàng TW cấp tiền vay cho Ngân hàng. Lãi suất chiết khấu do Ngân hàng TW ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng vì hành vi tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các Ngân hàng nên thông thường lãi suất tái chiết khấu thường nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp phải hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống Ngân hàng nhằm kiềm chế, đẩy lùi lạm phát hoà phát các Ngân hàng trong các trường hợp vi phạm về khả năng thanh toán.
Ngân hàng TW có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng, thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống Ngân hàng.
+Lãi suất liên Ngân hàng: là lãi suất mà các Ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên Ngân hàng.
Lãi suất liên Ngân hàng thường được ấn dịnh vào mỗi buổi sáng (còn gọi là lãi suất hàng ngày) nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu trên TW của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối bởi lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng TW. Mức độ chi phối phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay Ngân hàng TW của các tổ chức tín dụng.
+Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng TW ấn định (Nhật: là mức lãi suất cho vay thấp nhất) hoặc có thể do bản thân các Ngân hàng tự xây dựng căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của Ngân hàng mình (Mỹ, Anh, úc) và đó là mức lãi suất được áp dụng cho các khách hàng có mức rủi ro thấp nhất hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số Ngân hàng đứng đầu, của các Ngân hàng khác cộng trừ biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình. Một số nước lại sử dụng lãi suất liên Ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp) mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và đó là mức lãi suất tối thiểu bù đắp được lãi suất cho vay và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất cho vay sẽ khác nhau vì biến động của mức bù rủi ro.
(Ở Việt nam Luật Ngân hàng Nhà nước hiện nay quy định “ lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” )
3. Vai trò của lãi suất (trong nền kinh tế thị trường)
Lãi suất là một biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế và được theo dõi rất chặt chẽ. Sở dĩ lãi suất được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế là vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp, tổng thể nền kinh tế, tác động lên mặt ở tầm vi mô và cả vĩ mô.
3.1. Vai trò của lãi suất đối với quyết định chủ thể trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường người đi vay cũng như người cho vay có thể là các cá nhân, hộ gia đình; các doanh nghiệp, Chính phủ, các nhân tố nước ngoài. Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên cá khoản chi phí, làm giảm lợi nhuận. Đối với người cho vay lãi suất là một nguồn tạo ra thu nhập. Vì vậy lãi suất có một tác động to lớn tới các quyết định của các chủ thể kinh tế.
+Đối với cá nhân, hộ gia đình: Lãi suất ảnh hưởng tới nhiều quyết định như chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm.
+ Đối với Doanh nghiệp: Lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Lãi suất có thể được coi là chi phí của doanh nghiệp. Do vậy lãi suất thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp cho vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Bớt một đồng chi phí là tàng một đồng lợi nhuận, doanh nghiệp luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trên 1 đồng chi phí.
Vì vậy, lãi suất lại đóng vai trò là một công cụ buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách triệt để, có hiệu quả.
+ Đối với Nhà nước: lãi suất không chỉ là công cụ nhằm huy động hay cho vay vốn mà còn là công cụ quản lý vĩ mô quan trọng nhằm điều tiết sản xuất kinh doanh theo đúng định hướng, xử lý hài hoà giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, điều hành gián tiếp chính sách tiền tệ quốc gia để thực hiện các mục tiêu của mình: ổn định giá cả đồng nội tệ; tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao (trên 7%) và đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ.
3.2. Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
Hiện nay nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đang trong giai đoạn xây dựng những cơ sở vật chất để nước ta đi lên CNXH. Chiến lược, nhiệm vụ trong toàn thời kỳ này của nước ta là công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vậy để có thể công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở rộng sản xuất thì vấn đề không thể thiếu được đó là vốn. Trong Đại hội VIII của Đảng đã đề ra rằng: Vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy, cơ sở lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội, tập trung các nguồn vốn manh mún, tản mạn tạo thành một nguồn vốn lớn đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp tạo điều kiện cho việc tái sản xuất, mở rộng sản xuất một cách liên tục, phát triển nền kinh tế.
* Lãi suất với quá trình đầu tư
Quá trình đầu tư của các doanh nghiệp vào tài sản cố định (máy móc, công trường, nguyên vật liệu) được thực hiện khi mà họ chỉ tính lợi nhuận thu được từ vốn đầu tư vào các tài sản cố định này hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. (Do đó, lãi suất xuống thấp, các hàng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư vào vốn các tài sản cố định phục vụ sản xuất. Vì thế, chi tiêu đầu tư có kế hoạch sẽ cao hơn và ngược lại)
Quan hệ lãi suất và chi tiêu đầu tư có kế hoạch
i3
Đường đầu tư
i2
i1
Sự dốc xuống của đường đầu tư biểu diễn phản ánh tỷ lệ nghịch giữa chi tiêu đầu tư có kế hoạch với lãi suất
Đường đầu tư càng thoải thì càng nhạy cảm với lãi suất
Lãi suất thấp khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng tăng tổng cầu sản lượng tăng, giá cả tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.
Lãi suất cao hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng Giảm tổng cầu sản lượng giảm, giá giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng phát triển giá so với ngoại tệ.
Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế. Người ta thấy rằng: trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế, lãi suất có xu hướng phát triển do cung – cầu quỹ cho vay đều phát triển trong đó tốc độ phát triển quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại trong nền kinh tế bị đình trệ hàng hoá bị ứ đọng và xuỗng giá, áp lực lạm phát thấp (thiểu phát) Lạm phát sẽ giảm xuỗng bởi theo nguyên tắc cơ bản lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận đầu tư và khi nền kinh tế trì trệ thì cơ hội đầu tư kiếm lời cũng giảm lãi suất giảm.
*Lãi suất với Xuất nhập khẩu:
Khi lãi suất trong nước thực tế phát triển lên thì các khoản tiêu quỹ dùng bằng nội tệ sẽ trở nên thấp dần hơn so với tiêu quỹ bằng ngoại tệ. Do đó làm cho giá trị đồng nội tệ tăng lên so với các đồng khác nghĩa là tỷ giá hối đoái tăng lên. Lúc này hàng hoá của nước ta tại nước ngoài đắt hơn và hàng hoá nước ngoài có ở nước ta sẽ rẻ hơn dẫn đến giảm xuất khẩu ròng, khuyến khích nhập khẩu.
i3
i2
i1
NX3 NX2 NX1
quan hệ lãi suất trong nước với xuất khẩu rộng
Với một mức lãi suất thực tế thấp i1 tỉ giá là thấp và xuất khẩu rộng, NX1 là cao. Với mức lãi suất i3 cao, tỷ giá cao Xuất khẩu rộng NX3 thấp
Thay đổi trong lãi suất nước ngoài:
Nếu lãi tiền gửi nước ngoài tăng lên (trong trượng hợp mọi cái khác không đổi) thì lợi tức về những tiền gửi đó cũng tăng lên đường trên diện lợi tức dự tính về ngoại tệ dịch sang phải sự sụt giá của đồng nội tệ diện này được thể hiện ở đồ thị sau:
Tỷ giá Ret (đ) Ret ($1)
(USD/VND)
Ret ($2)
E1
E2
Lợi tức dự tính (đ)
Lãi suất nước ngoài tăng, đường lợi tức dự tính của đồng ngoại tệ dịch sang phải.
Sự sụt giá của đồng nội tệ dẫn đến hàng hoá của nước ta ở nước ngoài rẻ hơn và hàng hoá nước ngoài ở nước ta đắt hơn. Vì vậy tăng xuất khẩu ròng.
Trên đây chúng ta đã nghiên cứu vai trò của lãi suất trong nền kinh tế. Lãi suất ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính 2 mặt, nó sẽ là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hoặc là nhân tố kìm hãm sự phát triển kinh tế. Điều này phụ thuộc vào cơ sở lãi suất của Chính phủ có hợp lý hay không.
Trước vai trò to lớn của lãi suất trên đây ta vừa nghiên cứu là được lý thuyết và thực tiễn chứng minh thì lãi suất thực sự là một công cụ điều tiết vĩ mô vô cùng quan trọng mà Ngân hàng TW sử dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ, mục tiêu của mình. Lãi suất Ngân hàng là một phạm trù kinh tế có tính 2 mặt, nó sẽ là công cụ, đòn bảy mà Ngân hàng TW sử dụng để thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hay nhân tố kìm hãm sự phát triển nền kinh tế ? Điều này phụ thuộc vào sự điều hành lãi suất, cơ sở lãi suất của Ngân hàng TW và tính hiệu quả của nó được kiểm nghiệm trong thực tế.
II. NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG – SỰ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT TÍN DỤNG NGÂN HÀNG CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
1. Các mô hình Ngân hàng TW và mô hình Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1.1. Mô hình Ngân hàng TW trực thuộc Bộ tài chính.
Đây là mô hình kính tế đang lần lượt được loại bỏ, coi đây như một kinh nghiệm không thành công trong chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế thị trường.
1.2.Mô hình Ngân hàng TW độc lập với Chính phủ trực thuộc Quốc hội.
Theo mô hình này Ngân hàng TW không nằm trong nội các của Chính phủ. Quan hệ giữa Ngân hàng TW và Chính phủ là quan hệ hợp tác được thể hiện