Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới thì lạm phát đã và đang trở thành một vấn đề mang tính thời sự cấp bách đối với nhiều quốc gia. Lạm phát trong thời kì nào thì cũng luôn mang cùng một bản chất tuy nhiên trong mỗi một thời kì khác nhau của nền kinh tế thì lạm phát lại có những biểu hiện mới và có những nguyên nhân mới cần phải được xem xét. Vì vậy tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lạm phát nhưng việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này vẫn luôn mang tính cấp thiết, từ đó giúp đưa ra được những giải pháp nhằm giải quyết tình trạng lạm phát, giúp cho nền kinh tế phát triển và tăng trưởng một cách bền vững.
Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhắc đến nền kinh tế thị trường thì vấn đề lạm phát là một vấn đề mang tính tất yếu và khách quan, và muốn được hưởng những lợi ích về vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại thì chúng ta phải khắc phục và giải quyết cho được vấn đề lạm phát.
Để có thể thực hiện được điều đó thì chúng ta cần phải có được những nhận thức đầy đủ và đúng đắn về lạm phát. Chúng ta cần phải tìm hiểu xem lạm phát là gì? Do đâu mà có lạm phát? Tại sao người ta lại quan tâm đến lạm phát? Từ đó chúng ta sẽ có được những giải pháp đúng đắn và phù hợp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua quá trình tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trên ghế nhà trường, chúng em đã chọn đề tài: “LẠM PHÁT TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ KIỀM CHẾ”.
55 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lạm phát tiền tệ ở Việt Nam giải pháp kiểm soát và kiềm chế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LẠM PHÁT TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ KIỀM CHẾ
Lời mở đầu
Trong thời gian gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thế giới thì lạm phát đã và đang trở thành một vấn đề mang tính thời sự cấp bách đối với nhiều quốc gia. Lạm phát trong thời kì nào thì cũng luôn mang cùng một bản chất tuy nhiên trong mỗi một thời kì khác nhau của nền kinh tế thì lạm phát lại có những biểu hiện mới và có những nguyên nhân mới cần phải được xem xét. Vì vậy tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lạm phát nhưng việc tiếp tục nghiên cứu về vấn đề này vẫn luôn mang tính cấp thiết, từ đó giúp đưa ra được những giải pháp nhằm giải quyết tình trạng lạm phát, giúp cho nền kinh tế phát triển và tăng trưởng một cách bền vững.
Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhắc đến nền kinh tế thị trường thì vấn đề lạm phát là một vấn đề mang tính tất yếu và khách quan, và muốn được hưởng những lợi ích về vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại thì chúng ta phải khắc phục và giải quyết cho được vấn đề lạm phát.
Để có thể thực hiện được điều đó thì chúng ta cần phải có được những nhận thức đầy đủ và đúng đắn về lạm phát. Chúng ta cần phải tìm hiểu xem lạm phát là gì? Do đâu mà có lạm phát? Tại sao người ta lại quan tâm đến lạm phát? Từ đó chúng ta sẽ có được những giải pháp đúng đắn và phù hợp nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua quá trình tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trên ghế nhà trường, chúng em đã chọn đề tài: “LẠM PHÁT TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT VÀ KIỀM CHẾ”.
MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Danh mục bảng 4
Danh mục biểu đồ 4
Chương I: Lý luận chung về lạm phát 5
1.1. Lạm phát 5
1.1.1. Khái niệm 5
1.1.2.Các phép đo lường 6
1.1.3. Phân loại 8
1.1.4. Các biểu hiện 8
1.1.5.Nguyên nhân 10
1.2.Ổn định tiền tệ 11
1.2.1. Khái niệm 11
1.2.2. Các biện pháp ổn định tiền tệ 11
Chương II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam 22
2.1.Tổng quan tình hình lạm phát của Việt Nam 22
2.1.1 Từ 1951 đến 1988 22
2.1.2 Từ 1988 đến nay 27
2.2 Nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam 32
2.2.1 Các nguyên nhân chính từ bối cảnh kinh tế toàn cầu 32
2.2.2Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế 35
Chương III. Giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 41
3.1 Dự báo về lạm phát Việt Nam trong thời gian tới 41
3.2. Định hướng 42
3.2.1. Định hướng chiến lược ở Việt Nam từ nay đến năm 2015 42
3.2.2 Định hướng tăng trưởng kinh tế GDP từ 2015-2020. Định hướng duy trì 43
3.3. Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.1 Giải pháp kiểm soát và kiềm chế lạm phát ở Việt Nam 45
3.3.2. Một số kiến nghị đối với chính phủ 50
Chương IV: Kết luận 54
Tài liệu tham khảo 55
Danh mục bảng
Bảng 2.1 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1988-1992 ở Việt Nam
Bảng 2.2 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 1993-2003 ở Việt Nam
Bảng 2.3 Tỉ lệ lạm phát các năm trong giai đoạn 2004-2011 ở Việt Nam
Bảng 2.4 Cán cân thương mại của Việt Nam và các nước trong khu vực
Bảng 2.5 Tăng trưởng cung tiền tệ Việt Nam và các nước trong khu vực
Bảng 2.6Tăng trưởng tín dụng nội địa Việt Nam và các nước trong khu vực
Bảng 2.7 Tỷ lệ đầu tư nước ngoài trực tiếp trong tổng đầu tư
Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 2.1:Biểu đồ tỷ lệ lạm phát (%) ở VNCH ( áp dụng riêng cho tầng lớp thượng lưu và tầng lớp lao động) giai đoạn 1955-1973
Biểu đồ 2.2 : Biểu đồ Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1976-1986
Biểu đồ 2.3 : Biểu đồ tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1984-1988
Biểu đồ 2.4: Biểu đồ tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1988-1992
Biểu đồ 2.5: Biểu đồ tỷ lệ lạm phát giai đoạn 1992-2003
Biểu đồ 2.6: Biểu đồ tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2002-2011
Biểu đồ 2.7: Biểu đồ giá một số mặt nhiên liệu từ tháng 1 đến tháng 6 năm 2011.
Biểu đồ 2.8: Biểu đồ giá một số mặt hàng thực phẩm tháng 7/2010 và tháng 6 năm 2011.
Biểu đồ 2.9: Biểu đồ cung tiền, tín dụng và chỉ số giá tiêu dùng từ 2007-2010
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ LẠM PHÁT
1.1. Lạm phát
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều nhà kinh tế đã đi tìm một định nghĩa đúng cho thuật ngữ lạm phát , nhưng nói chung chưa có một thống nhất hoàn toàn. Để có một khái niệm chung về lạm phát, chúng ta cần nghiên cứu một số luận thuyết về lạm phát.
Trong luận thuyết “ lạm pháp lưu thông tiền tệ” của Milton Friedman, Milton Friedman cho rằng lạm phát là việc đưa quá nhiều tiền vào lưu thông làm cho giá cả tăng lên.
Theo Jean Bodin “ lạm phát lưu trong mọi lúc mọi nơi đều là hiện tượng lưu thông tiền tệ. Lạm phát xuất hiện và chỉ có thể xuất hiện khi nào số lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên với nhịp độ nhanh hơn so với sản xuất”.
Luận thuyết “lạm phát cầu dư thừa tổng quát” của John Maynard Keynes. Theo John Maynard Keynes nguyên nhân cơ bản của lạm phát là sự biến động của quan hệ cung cầu hàng hóa. Khi mức cung đã đạt tột đỉnh vượt quá mức cầu , làm cho sản xuất đình đốn thì Nhà nước cần phải tăng thêm tiền vào lưu thông, để tăng các khoản chi cho Chính phủ, nghĩa là phải tăng cầu để đạt tới mức cân bằng với cung và vượt cung. Khi đó xuất hiện lạm phát và lạm phát ở đây có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển. Như vậy theo J M Keynes, trong điều kiện nền kinh tế có tài nguyên dư thừa, sức lao động dồi dào, có phương tiện lao động, nhưng thiếu vốn thì lạm phát là một công cụ tăng trưởng kinh tế, chống suy thoái.
Luận thuyết “ lạm phát chi phí “ : theo quan điểm này cho rằng lạm phát nảy sinh do mức tăng các chi phí sản xuất kinh doanh nhanh hơn mức tăng năng suất lao động. Mức tăng chi phí này chủ yếu là do tăng : tiền lương, giá các nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu…đặc biệt từ sau năm 1970 do giá dầu mỏ tăng cao, đã làm cho lạm phát tăng ở nhiều nước.
Luận thuyết “ lạm phát cơ cấu “ được phổ biến ở nhiều nước đang phát triển : lạm phát nảy sinh là do sự mất cân đối sâu sắc trong chính cơ cấu của nền kinh tế (mất cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng,giữa công nghiệp và nông nghiệp…),chính vì sự mất cân đối này là một nhân tố cơ bản dẫn đến sự phát triển không có hiệu quả của nền kinh tế.
Theo quan điểm của Karl Marx “lạm phát là sự tràn ngập trong lưu thông một khối lượng tiền giấy quá thừa dẫn đến sự mất giá của tiền giấy, dẫn đến sự phân phối lại thu nhập quốc dân có lợi cho giai cấp thống trị, làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân lao động”.
Lạm phát thường có những biểu hiện đó là:
Giá cả của tất cả các loại hàng hóa kể cả hàng hóa tư liệu tiêu dùng , lẫn hàng hóa tư liệu sản xuất và giá cả hàng hóa sức lao động đều tăng.
Giá ngoại tệ tăng
Giá cả của chứng khoán có giá biến động mạnh
1.1.2.Các phép đo lường
Để đo lường sự thay đổi mức giá,các kinh tế gia đã sử dụng phương pháp chỉ số để thể hiện được sự biến động của giá cả hàng hóa trong nền kinh tế.
Có nhiều phương pháp tính chỉ số giá như: phương pháp chỉ số hàng hóa tiêu dung (CPI); phương pháp chỉ số giá sản xuất (PPI); trong đó chỉ số giá cả hàng hóa tiêu dùng CPI là phương pháp tính phố biến nhất.
CPI dùng để phản ánh sự thay đổi giá cả của các mặt hàng tiêu dùng được xác định trên cơ sở sự thay đổi giá cả của từng nhóm mặt hàng tiêu dùng và tỷ trọng của chúng trong tổng chi tiêu của người tiêu dùng. CPI là chỉ số tính theo một giỏ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ chính trên thị trường.
Chẳng hạn : Ở Mỹ giỏ này gồm có 265 mặt hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ chính ở 85 thánh phố. Ở Việt Nam CPI được tính trên 296 mặt hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ chính, chia thành 86 nhóm hàng cấp III, 34 nhóm hàng cấp II và 10 nhóm hàng cấp I. Quyền số dùng để tính CPI là cơ cấu chi tiêu hộ gia đình.
Việc xác định CPI theo nguyên tắc : chỉ số của từng mặt hàng, dịch vụ và chỉ số giá nhóm III tính theo phương pháp bình quân số học đơn giản; chỉ số giá nhóm II, chỉ số giá nhóm I và c hỉ số giá chung được tính theo phương pháp bình quân số học gia quyền theo công thức :
Trong đó :
Ip : chỉ số giá tiêu dùng nhóm cấn tính.
: Chỉ số nhóm x trong nhóm cần tính.
: Quyền số cố định của nhóm x trong nhóm cần tính.
Khi mức giá chung được đo lướng bằng CPI, mức độ thay đổi của mức giá chung được xác định như sau:
Mức độ thay đổi của
CPI năm thứ n =(CPI năm n-CPI năm (n-1 ))/(CPI năm (n-1))
CPI được sử dụng phổ biến vì nó phản ánh những thay đổi của giá cả mặt hàng tiêu dung, hàng hóa tiêu dùng là những mặt hàng có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người tiêu dùng. Mặt khác, sự thay đổi giá cả của các mặt hàng không phải là hàng tiêu dùng suy cho cùng sẽ phản ánh vào sự thay đổi giá cả của hàng tiêu dùng.
CPI của năm này so với năm trước mà tăng lên , nghĩa là sức mua của tiền tệ bị giảm sút, xảy ra lạm phát.
Nếu như CPI của năm này so với năm trước mà giảm xuống, nghĩa là sức mua của tiền tệ tăng, xảy ra thiểu phát.
Khoảng cách giữa lạm phát và thiểu phát là hiện tượng giảm phát, theo nghĩa chung nhất mà nhiều nhà nghiên cứu đều cho rằng giảm phát là mức độ lạm phát giảm xuống. Song trong thực tế giảm phát chỉ được người ta nhắc đến khi lạm phát xuống đến mức độ cực thấp, khi đó nền kinh tế ở trong tình trạng giống như khi có thiểu phát, bởi vậy để đơn giản hóa vấn đề trong nghiên cứu tất cả các nội dung có lien quan đến giảm phát chúng ta đều coi như thiểu phát.
1.1.3. Phân loại:
Căn cứ vào cường độ của lạm phát:
Lạm phát thấp
Lạm phát phi mã.
Lạm phát siêu tốc.
Căn cứ vào tác động của lạm phát:
Lạm phát cân bằng và có thể dự đoán được
Lạm phát không cân bằng và có thể dự đoán.
Căn cứ biểu hiện bên ngoài của bản chất lạm phát:
Lạm phát lưu thông tiền tệ.
Lạm phát giá cả.
Lạm phát sức mua.
Lạm phát suy thoái.
Căn cứ vào nguyên nhân:
Lạm phát cầu kéo
Lạm phát chi phí đẩy
Căn cứ phạm vi ảnh hưởng mặt không gian:
Lạm phát quốc gia.
Lạm phát thế giới.
Căn cứ tính lịch sử:
Lạm phát cổ điển (gắn liền với chiến tranh.)
Lạm phát hiện đại (gắn liền với hòa bình.)
1.1.4 Các biểu hiện
1.1.4.1.Ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế:
1.1.4.1.1 Tiêu cực
Lạm phát cao sẽ làm lệch cơ cấu giá cả, kéo theo là nguồn tài nguyên, vốn và nhân lực không được phân bố một cách hiệu quả làm cho tăng trưởng kinh tế chậm lại.Giá cả tăng khi có lạm phát làm đời sống kinh tế trở nên khó khăn hơn do số lượng tiền tệ gia tăng quá nhiều trong khi khối lượng hàng hóa sản xuất ra không tăng kịp. Vì giá cả tăng quá cao nên cần phải có khối lượng tiền tệ thật lớn mới mua được một món hàng có giá trị không cao lắm. Trật tự kinh tế bị đảo lộn do vật giá tăng lên tình trạng đầu tư tích trữ tràn lan. Hàng hóa khan hiếm người mua phải chấp nhập mua bằng mọi giá. Những người có thu nhập cố định như công nhân viên chức cán bộ hưu trí… nay nhận thấy rằng mức thu nhập thực tế của mình đã giảm xuống vì giá cả tăng sức mua của đồng tiền giảm mặc dù tiền lương tăng. Xu hướng người dân mua hàng hóa tích trữ thay vì gửi tiền vào ngân hàng hay đem đầu tư đã làm cầu tăng lên một cách giả tạo do vậy nguy cơ lạm phát bùng nổ càng cao.
Hoạt động tín dụng trở nên khó khăn hơn vì không ai muốn bỏ tiền ra cho vay sau đó thu về đồng tiền mất giá. Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn. Các nhà đầu tư không giám đầu tư dài hạn vì độ rủi ro quá cao. Vì vậy, nó ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội quốc gia: hoạt động kinh tế biến dạng, gây tâm lý xã hội phức tạp,lãng phí sản xuất. Định vị quốc gia suy yếu trên thế giới do mất giá đối nội và đối ngoại của đồng tiền, khiến cho tỷ giá hối đoái gia tăng, khuynh hướng chuyển chuyển dịch tài sản và ngoại tệ ra nước ngoài nhiều hơn ngoại tệ và tài sản ở nước ngoài vào. Kết quả khiến cho dự trữ vay và ngoại tệ giảm sút.
Xây dựng bị đình trệ do các bản hợp đồng không được kí hay bị bán rẻ, thà chịu lỗ chứ không đợi vật giá leo thang.
1.1.4.1.2. Tích cực
Có rất nhiều tranh luận xung quanh mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Các nhà kinh tế theo trường phái lập luận cho rằng chúng có mối liên hệ chặt chẽ tỷ lệ thuận, nếu có tăng trưởng kinh tế tất nhiên có lạm phát. Với lập luận này, ở một số nước đang phát triển, lạm phát được coi là yếu tố tích cực để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Bởi lẽ lạm phát làm tăng đầu tư và tiết kiệm do chuyển thu nhập từ người làm công ăn lương sang tăng thu nhập của các nhà kinh doanh lấy lãi. Và nếu tăng nhanh sẽ có xu hướng làm tăng khoản tiết kiệm từ lợi nhuận cao hơn tăng khoản tiết kiệm từ tiền lương. Kết quả là đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế.
1.1.5. Nguyên nhân gây ra lạm phát:
1.1.5.1. Lạm phát cầu kéo:
Tập hợp một số nhóm các nguyên nhân khiến cho số cầu tăng lên quá mức cần thiết làm cho số cung không đáp ứng kịp. Một trong những cú sốc lớn đối với lạm phát là sự thay đổi trong đầu tư, chi tiêu chính phủ hay xuất khẩu ròng có thể làm thay đổi tổng cầu và đẩy sản lượng vượt quá mức tiềm năng của nó. Lạm phát cầu kéo xảy ra khi nền kinh tế quá nóng, mức đầu tư tăng quá nhanh hoặc chính phủ làm tăng mức cung tiền quá lớn.
1.1.5.2. Lạm phát chi phí đẩy:
Xảy ra khi có tác động của các yếu tố bên ngoài, tác động vào không gắn với tình hình tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế. Lạm phát xuất hiện khi giá nguyên vật liệu tăng, tiền công tăng cao hơn mức năng suất lao động bình quân, chi phí khấu hao lớn, máy móc thiết bị lạc hậu tốn nhiều nguyên liệu nhiên liệu. Trên đồ thị tổng cung - tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp và lạm phát điều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát chi phí đẩy hay lạm phát kem suy thoái.
1.1.5.3. Lạm phát tiền tệ:
Theo lý thuyết số lượng tiền tệ, lượng tiền tệ trong nền kinh tế quyết định giá trị của tiền và sự gia tăng khối lượng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu gây ra lam phát. Xét phương trình số lượng: M*V = P*Y sự gia tăng lượng tiền trong nền kinh tế phải biểu hiện ở một trong ba biến số khác: mức giá phải tăng, sản lượng phải tăng hoặc tốc độ lưu thông tiền tệ phải giảm. Do vậy, khi tăng cung ứng tiền tệ một cách nhanh chóng, thì kết quả là tỷ lệ lạm phát tăng cao. Tiền tệ là nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát chỉ có tăng tiền mới có thể tăng giá. Chính vì vậy, việc quản lý tốt hạn mức tín dụng và linh hoạt hóa vòng quay của tiền tệ cũng là một trong những biện pháp sử dụng đồng tiền có hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát.
1.2 Ổn định tiền tệ
1.2.1 Khái niệm
Ổn định tiền tệ nói chung và kiềm chế lạm phát nói riêng là việc nhà nước áp dụng các biện pháp về kinh tế, tài chính, kỹ thuật để ổn định sức mua của đồng tiền tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ổn định tiền tệ và tài chính luôn là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Thực tế cũng cho thấy kinh tế càng phát triển thì những bất ổn kinh tế xuất hiện càng nhiều hơn. Thị trường tiền tệ Việt Nam kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay đã có những phát triển đáng kể và đang từng bước hội nhập đầy đủ vào một thị trường hiện đại theo thông lệ quốc tế.
1.2.2 Ngân hàng trung ương với nhiệm vụ ổn định thị trường tiền tệ
Hầu hết các NHTW ngày nay đều sử dụng các công cụ CSTT để kiểm soát và điều tiết lãi suất thị trường. Thông qua các công cụ CSTT, NHTW có thể tác động đến lãi suất ngắn hạn của thị trường liên ngân hàng, từ đó tác động tới cân bằng cung cầu về vốn khả dụng của các định chế tài chính và kiểm soát được tổng khối lượng cung tiền của nền kinh tế. NHTW thường kết hợp sử dụng nhiều công cụ khác nhau cùng một lúc để kiểm soát lãi suất thị trường. Đối tượng chính để NHTW tác động là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và lãi suất liên ngân hàng. Để duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ, NHTW thường sử dụng các biện pháp chính là: (i) Can thiệp thị trường liên ngân hàng; (ii) Tác động qua nghiệp vụ thị trường mở; (iii) Sử dụng khung lãi suất và người cho vay cuối cùng; (iv) Thay đổi dự trữ bắt buộc.
1.2.2.1 Một số bài học về ổn định thị trường tiền tệ
Thứ nhất, các NHTW cần phải để cho các công cụ chính sách dựa vào thị trường nhiều hơn.
Thứ hai, việc xây dựng chính sách tiền tệ phải được dẫn dắt bởi các chỉ số kinh tế vĩ mô hơn là dựa vào một cái neo danh nghĩa trung gian đơn lẻ.
Thứ ba, các NHTW phải ngày càng tập trung vào các mức lãi suất hơn là vốn khả dụng ngân hàng trong quản trị thanh khoản và duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ.
Thứ tư, các NHTW cần phải tập trung vào điểm có kỳ hạn rất ngắn của đường cong lãi suất (yield curve), bởi vì ở đó hành động của NHTW sẽ có khả năng gây ra những tác động lớn nhất.
Thứ năm, cùng với tính định hướng thị trường lớn hơn trong các công cụ chính sách của NHTW, tính linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ cũng được đòi hỏi nhiều hơn.
Cuối cùng, ý thức ngày càng lớn về tầm quan trọng của kỳ vọng và tâm lý thị trường đã đảm bảo sự minh bạch lớn hơn trong việc thực thi chính sách tiền tệ với sự chú trọng đặc biệt tới chính sách truyền thông nhằm truyền đạt lập trường và cơ sở hợp lý của các quyết định chính sách.
1.2.2.2. Đóng góp của chính sách tiền tệ linh hoạt đối với sự ổn định tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian qua
1.2.2.2.1. Điều hành chính sách tiền tệ từ cuối năm 2006 đến nay
- Giai đoạn trước tháng 6 năm 2007: NHNN sử dụng CSTT nới lỏng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng mở rộng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán (M2). Đặc điểm của giai đoạn này là thị trường bất động sản phục hồi, thị trường chứng khoán bùng nổ, dòng vốn nước ngoài tăng mạnh. Trong tình hình đó, NHNN đã sử dụng linh hoạt các công cụ CSTT để điều tiết lượng tiền cung ứng và mua ngoại tệ, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước, giảm áp lực tăng giá VND, góp phần bình ổn thị trường ngoại hối. Đồng thời, NHNN thu hút lượng tiền đã cung ứng để giảm mức độ dư thừa vốn khả dụng tại các NHTM, hạn chế sự gia tăng M2, qua đó giảm áp lực lạm phát. Các biện pháp cụ thể được áp dụng là (i) Can thiệp thị trường ngoại hối nhằm giảm áp lực tăng giá VND; (ii) Thực hiện các giải pháp kiểm soát tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán nhằm kiểm soát lạm phát, duy trì sự ổn định của thị trường tiền tệ.
- Từ tháng 6 năm 2007 đến tháng 4 năm 2008: NHNN sử dụng CSTT thắt chặt. Các biện pháp cụ thể được áp dụng là (i) Tăng mức DTBB đối với tiền gửi VND dưới 12 tháng lên 10% (kể từ ngày 01/06/2007) và 11% (kể từ tháng 3/2008); (ii) Tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm (kể từ ngày 30/01/2008); (iii) Phát hành 20.300 tỉ đồng tín phiếu NHNN dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM để giảm lượng tiền trong lưu thông; (iv) Nâng biên độ giao dịch tỉ giá lên 1,0%.
- Từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2008: NHNN sử dụng CSTT thắt chặt để kiềm chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, đảm bảo mức tăng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng không vượt quá 30%. Các biện pháp cụ thể được áp dụng là (i) Chỉ đạo các TCTD kiểm soát chặt chẽ những lĩnh vực cho vay có rủi ro cao như đầu tư vào TTCK và kinh doanh bất động sản; (ii) Sử dụng các công cụ của CSTT như lãi suất, tỷ giá, DTBB, nghiệp vụ thị trường mở để điều tiết lượng vốn khả dụng của các NHTM; (iii) Điều hành tỉ giá linh hoạt để ổn định thị trường và cải thiện cán cân thanh toán.
- Từ tháng 10 năm 2008 đến nay: CSTT nới lỏng và thắt chặt trở lại. Khủng hoảng tài chính quốc tế tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước, áp lực giảm phát xuất hiện. Để phục hồi kinh tế, NHNN đã thực hiện CSTT nới lỏng theo hướng giảm lãi suất cơ bản và mặt bằng lãi suất cho vay, tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng cho nền kinh tế; giảm tỉ lệ DTBB đối với tiền gửi VND; giảm lãi suất tiền gửi DTBB đối với VND xuống còn 3,6%/năm. Để hạn chế những diễn biến bất lợi trên thị trường ngoại hối, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ tỉ giá giao dịch USD/VND từ mức 2% lên 3%; đồng thời sử dụng các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu, đảm bảo ổn đị