Đề tài Luật chống bán phá giá và giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt nam đã và đang tham gia sâu và rộng vào các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, APEC và WTO. Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Những bên cạnh đó cũng đối mặt với những khó khăn trong đẩy mạnh xuất khẩu do các nước nhập khẩu đã tận dụng những quy định mở để tạo ra những rào cản mới như chống bán phá giá, chống trợ cấp.để bảo hộ nền sản xuất trong nước của mình. Áp lực từ các vụ kiện bán phá giá sẽ ngày càng tăng, sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nói chung và thị trường xuất khẩu của Việt Nam nói riêng. Ngành sản xuất và chế biến thủy sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Trong vài năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Mỹ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Mỹ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở Việt Nam, Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Mỹ là nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ đã sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này vào thị trường Mỹ. Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước giầu mạnh. Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu. Chính vì tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, nhóm em mạnh dạn chọn đề tài “Luật Chống Bán Phá Giá Và Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Cá tra, cá BaSa Của Việt Nam” nhằm mục đích tìm ra một số giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá Basa của Việt Nam.

doc21 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật chống bán phá giá và giải pháp cho doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần một : Dẫn nhập I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt nam đã và đang tham gia sâu và rộng vào các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, APEC và WTO. Việt Nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Những bên cạnh đó cũng đối mặt với những khó khăn trong đẩy mạnh xuất khẩu do các nước nhập khẩu đã tận dụng những quy định mở để tạo ra những rào cản mới như chống bán phá giá, chống trợ cấp...để bảo hộ nền sản xuất trong nước của mình. Áp lực từ các vụ kiện bán phá giá sẽ ngày càng tăng, sẽ ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế nói chung và thị trường xuất khẩu của Việt Nam nói riêng. Ngành sản xuất và chế biến thủy sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Trong vài năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu vào thị trường Mỹ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu thụ cá của người dân Mỹ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại cá này ở Việt Nam, Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Mỹ là nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ đã sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này vào thị trường Mỹ. Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước giầu mạnh. Thương trường Mỹ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay đang là một công cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ đã cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải khi tiếp cận thị trường Mỹ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu. Chính vì tầm quan trọng và tính thời sự của vấn đề, nhóm em mạnh dạn chọn đề tài “Luật Chống Bán Phá Giá Và Giải Pháp Cho Doanh Nghiệp Xuất Khẩu Cá tra, cá BaSa Của Việt Nam” nhằm mục đích tìm ra một số giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu cá Basa của Việt Nam. II. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI Hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mang lại nhiều lợi ích và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên cơ sở một nền thương mại và đầu tư công bằng. Nhưng trong khi các quốc gia thành viên WTO đang phải dỡ bỏ các rào cản thuế quan và thuế hoá các rào cản phi thuế quan thì các biện pháp tự vệ, thuế chống phá giá và thuế đối kháng vẫn ngày càng được nhiều quốc gia phát triển áp dụng một cách triệt để, nhất là, nhiều nước đang phát triển và kém phát triển phải đối mặt với tình trạng hàng hoá nhập khẩu bán phá giá tại thị trường của mình, và gánh chịu những thiệt hại cho sản xuất trong nước. Việc tìm các biện pháp bảo đảm thương mại công bằng - biện pháp chống bán phá giá, đang được rất nhiều nước quan tâm, kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Qua bài này chúng tôi muốn tìm hiểu một cách sâu sắc hơn về các quy định, luật bán phá giá của tổ chức WTO, ở thị trường Mỹ cũng như đề xuất những giải pháp nhằm góp phần hạn chế ảnh hưởng của các vụ kiện bán phá giá của Mỹ đối với hoạt động xuất khẩu cá BaSa của Việt Nam vào thị trường này trong thời gian tới. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ( 5 Áp lực cạnh tranh của Porter) Phần hai: Đề tài: LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU CÁ TRA, CÁ BASA CỦA VIỆT NAM I. SƠ LƯỢC VỀ NUÔI TRỒNG CÁ TRA, CÁ BASA VIỆT NAM 1.1. Vị thế, khả năng cạnh tranh Năm 2008, sản phẩm cá tra - basa của Việt Nam được đánh giá là nhóm sản phẩm thuỷ sản có tốc độ tăng nhanh nhất thế giới, xuất khẩu đến 127 quốc gia và vũng lãnh thổ với tổng sản lượng trên 640.000 tấn sản phẩm, đạt giá trị hơn 1.4 tỷ USD tăng khoảng 45% so với năm 2007, góp phần đưa toàn bộ ngành lần đầu tiên vượt qua ngưỡng 4 tỷ USD. Thống kê của Hiệp hội Xuất nhập khẩu Thủy sản Việt Nam cho thấy riêng quý I/2009, xuất khẩu cá tra và ba sa sang Mỹ đạt hơn 22 triệu USD, tăng 93,4% so với cùng kỳ năm 2008. Đa số cá tra, cá basa được nuôi trong ao, đăng quầng, bãi bồi và lồng bè; cá basa chủ yếu được nuôi trong các lồng bè ở các con sông lớn thuộc các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, v.v. Mùa sinh sản của cá Basa (từ tháng 1 – 7), cá Tra (từ tháng 2 – 10) và có thể thu hoạch quanh năm. Đến nay cá tra và cá basa đã được nuôi ở hầu hết các tỉnh, thành trong khu vực, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ nội địa và cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến cá tra và cá basa. Đặc biệt, từ khi Việt Nam mở rộng xuất khẩu và sản phẩm từ cá tra, cá ba sa tìm được thị trường thì ngành chế biến cá tra và ba sa như bước sang một trang mới. Những năm gần đây ngành công nghiệp chế biến cá tra, basa phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng nhanh và đang có tiềm năng lớn. Hầu hết các nhà máy chế biến cá tra, basa trong vùng đều được quan tâm đầu tư và nâng cấp với công nghệ, thiết bị khá hiện đại, tạo ra các sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế (như ISO, HACCP, code EU, Halal,…). Cả nước hiện có 168 DN chế biến, xuất khẩu cá tra, ca basa, trong đó 15 DN lớn chiếm đến 70% lượng xuất khẩu (Navico, Hùng Vương, Vĩnh Hoàn, Agifish, Bianfish…). Mặc dù có lợi thế về điều kiện tự nhiên về phát triển công nghiệp chế biến cá tra, cá basa, tuy nhiên chất lượng nguồn nhân lực thấp; lao động quản lý chưa được đào tạo chính quy, lao động trực tiếp kỹ năng lao động cũng như kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp còn kém; Việc quy hoạch nuôi trồng và chế biến cá tra, basa chưa mang tính vĩ mô; các tỉnh trong vùng đều quy hoạch một cách tự phát cho địa phương mình, thiếu tính liên kết và tầm nhìn chiến lược cho toàn vùng... Khó khăn đặc biệt mà ngành chế biến cá tra và cá ba sa đang gặp phải là Bộ Nông nghiệp Mỹ đã soạn thảo lần cuối các quy định mới theo đó các tra và ba sa của Việt Nam sẽ có thể được góp chung vào danh mục cá da trơn, Quy định này sẽ làm cho cá tra và cá ba sa của chúng ta nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ phải chịu những kiểm tra đặc biệt, gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu trong nước. 1.2. Lợi thế, tiềm nằng của cá basa Việt Nam Các loại cá của Việt Nam có chất lượng cao, thơm ngon, cơ thịt mềm mại. Loài cá này có ưu điểm thịt trắng, vị ngọt, giàu Omega 3 và DHA. Được xuất khẩu sang nhiều thị trường trên thế giới và được người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng. Đồng thời chất lượng sản phẩm và chất lượng nước để nuôi cá hoàn toàn đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh và sức khỏe của người tiêu dùng. Lợi thế cạnh tranh lớn nhất là về giá cả. Cá Việt Nam rẻ vì chi phí sản xuất thấp. Con giống thì đã cho đẻ nhân tạo nên rất rẻ, cá nuôi ở bè trên sông có dòng chảy liên tục nên chính môi trường tốt khiến cá lớn nhanh, ít nhiễm bệnh. Sông Tiền và sông Hậu là hai con sông có lưu lượng nước khá lớn (nhất là mùa lũ) nên cũng có khả năng tự điều chỉnh nhằm cân bằng hệ sinh thái. Điều này giúp nông dân có thể nuôi được cá với mật độ dày, cho năng suất cao, trên 1m3 nước có thể đạt năng suất 150-170 kg cá basa hoặc cá tra thương phẩm. Đồng thời, do nước chảy xiết nên có đủ lượng ôxy cho cá, không cần phải chi phí thêm hoặc chỉ phải chi phí ít cho công nghệ quậy nước để tạo thành dòng chảy trong bè, giảm được chi phí đầu vào. Thị trường xuất khẩu cá basa của Việt Nam Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cá tra, basa vẫn đang là mặt hàng chiếm tỷ trọng giá trị xuất khẩu cao nhất trong nhóm thủy sản, nửa đầu năm 2009 đạt khối lượng xuất khẩu 206.000 tấn, kim ngạch 473,9 triệu USD. Riêng thị trường Mỹ, bất chấp khó khăn do khủng hoảng kinh tế, xuất khẩu sang nước này đã có sự tăng trưởng vượt bậc, đạt 45,97 triệu USD, tăng 59,98 % so với cùng kỳ năm 2008. Hiện tại, EU vẫn là khối thị trường lớn nhất nhập khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam, với 26/27 quốc gia đã nhập khẩu cá của Việt Nam. Trong đó, 3 nước đứng đầu là Tây Ban Nha, Đức và Hà Lan, có khối lượng nhập khẩu chiếm 60% tổng lượng nhập khẩu cá tra, basa của toàn EU. Tây Ban Nha và Đức đồng thời là hai nhà nhập khẩu cá tra, basa lớn nhất của Việt Nam trong số 110 quốc gia nhập khẩu hai mặt hàng này. Nga là thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ 4 của Việt Nam, riêng đối với mặt hàng cá tra thì Nga lại càng là thị trường đầy tiềm năng, vì có nhu cầu cao đối với mặt hàng này. Hơn nữa, nếu so với các thị trường Nhật, Mỹ, EU thì thị trường Nga dễ tính hơn. Theo báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Nga, năm 2008, tỷ trọng cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang Nga chiếm 94,4% về khối lượng và 86,5% về giá trị trong tổng khối lượng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến thị trường này, đạt 118.155 tấn, trị giá 188,45 triệu USD. LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA WTO VÀ MỸ 2.1. Hiệp định về chống bán phá giá của WTO Hiệp định về Chống bán Phá giá là một trong những hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được ký kết tại Vòng đàm phán Uruguay. Tên đầy đủ của Hiệp định là Hiệp định về việc Thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994). Điều VI của GATT 1994 cho phép các thành viên có biện pháp chống lại hành vi bán phá giá. Hiệp định về Chống bán Phá giá quy định chi tiết các điều kiện để các thành viên WTO có thể thực hiện các biện pháp như vậy. Cả Hiệp định và Điều VI được sử dụng cùng nhau để điều chỉnh các biện pháp chống bán phá giá. Định nghĩa đầy đủ của hành vi bán phá giá được quy định trong Hiệp định “ Bán phá giá là hành vi của một công ty bán một mặt hàng xuất khẩu thấp hơn giá thông thường mà họ bán mặt hàng đó tại thị trường trong nước”. Để áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu là thành viên WTO phải chứng minh được ba điều kiện sau: Có hành động bán phá giá: được tính bằng độ chênh lệch giữa giá của mặt hàng nhập khẩu với giá của mặt hàng tương tự bán tại thị trường của nước xuất khẩu (gọi là biên độ phá giá). Có thiệt hại vật chất: đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu đang cạnh tranh trực tiếp với hàng nhập khẩu. Hành động bán phá giá: là nguyên nhân gây ra thiệt hại vật chất, hoặc đe dọa gây ra thiệt hại vật chất nêu trên. Biện pháp áp dụng Khi thỏa mãn được ba điều kiện trên, Hiệp định cho phép thành viên WTO được phép áp dụng biện pháp chống bán phá giá với mặt hàng nhập khẩu bị điều tra. Các biện pháp này thường là áp thêm một khoản thuế nhập khẩu đối với sản phẩm bị coi là bán phá giá nhằm đưa mức giá của sản phẩm đó xấp xỉ với "giá trị thông thường" của nó hoặc để khắc phục thiệt hại đối với ngành sản xuất của nước nhập khẩu. Các biện pháp này nếu trong điều kiện bình thường là những hành vi vi phạm các nguyên tắc của WTO về ràng buộc thuế suất nhập khẩu và không phân biệt đối xử hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, biện pháp chống bán phá giá chỉ mang tính tạm thời nhằm loại trừ ảnh hưởng tiêu cực của hàng hoá nhập khẩu phá giá trên thị trường quốc gia nhập khẩu vì vậy các quốc gia chỉ được phép áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thời hạn nhất định - tối đa là 5 năm. Miễn trừ Điều tra chống bán phá giá sẽ kết thúc ngay lập tức mà không đưa ra biện pháp chống bán phá giá nào nếu cơ quan chức năng xác định rằng biên độ phá giá không đáng kể (nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu). Điều tra cũng chấm dứt nếu khối lượng hàng bán phá giá là không đáng kể (khối lượng hàng phá giá từ một nước bị điều tra nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu, đồng thời tổng khối lượng hàng phá giá từ tất cả các nước bị điều tra nhỏ hơn 7% tổng nhập khẩu). Cơ quan theo dõi Hiệp định cũng quy định các thành viên phải báo cáo chi tiết ngay lập tức cho Ủy ban phụ trách các Hành động Chống bán Phá giá của WTO khi họ bắt đầu tiến hành điều tra sơ bộ cũng như khi đưa ra kết luận cuối cùng. Họ cũng phải báo cáo tổng kết hai lần mỗi năm cho Ủy ban tất cả những cuộc điều tra của họ. Khi có sự tranh cãi, các thành viên được khuyến khích tiến hành tham vấn lẫn nhau. Nếu tham vấn không đạt được kết quả, họ có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để giải quyết và phải chấp nhận kết quả giải quyết theo cơ chế này. 2.2. Luật chống bán phá giá của Mỹ Khái niệm luật chống bán phá giá của Mỹ cũng gần giống với WTO, Luật chống phá giá được áp dụng đối với hàng nhập khẩu khi nó được xác định là hàng nước ngoài được bán “phá giá” vào Hoa Kỳ, hoặc sẽ bán phá giá ở Hoa Kỳ với giá “thấp hơn giá trị thông thường”. Thấp hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ thấp hơn giá bán của hàng hóa đó ở nước xuất xứ hoặc ở nước thứ 3 thay thế thích hợp. Thuế chống phá giá được áp dụng khi có đủ hai điều kiện (1) Bộ thương mại (Department of Commerce – DOC) phải xác định hàng nước ngoài đang được bán phá giá hoặc có thể sẽ được bán phá giá ở thị trường Hoa Kỳ, và (2) Uỷ Ban hiệp thương quốc tế (US International Trade Commission – USITC) phải xác định hàng nhập khẩu được bán phá giá đang gây thiệt hại vật chất hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất hoặc ngăn cản hình thành ngành công nghiệp tương tự tại Hoa Kỳ.Cũng giống như trường hợp luật thuế chống trợ giá, các thủ tục điều tra về bán phá giá được tiến hành khi có đơn khiếu kiện của một ngành công nghiệp hoặc do DOC tự khởi xướng. Thuế chống bán phá giá sẽ được ấn định bằng mức chênh lệch giữa “giá trị thông thường” và mức giá xuất khẩu vào Hoa Kỳ. DOC sẽ xác định giá trị thông thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách. Theo thứ tự ưu tiên là: (1) Giá bán của hàng hóa tại thị trường nội địa, (2) Giá bán hàng hóa sang thị trường thứ ba, (3) “Giá trị tính toán” của hàng hóa bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các khoản lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng, và các chi phí hành chính khác như đóng gói. “Giá trị tính toán” được coi là giá trị thông thường để tính biên phá giá khi giá bán ở thị trường nội địa hoặc giá bán sang nước thứ ba thấp hơn chi phí sản xuất hoặc hàng hóa đang bị điều tra không bán ở thị trường nội địa hoặc không được bán sang nước thứ ba. Nếu từ hai nước trở nên bị kiện bán phá giá hoặc trợ giá, luật yêu cầu USITC đánh giá lũy tích số lượng và ảnh hưởng của các hàng nhập khẩu tương tự từ các nước bị kiện nếu chúng cạnh tranh với nhau và với sản phẩm tương tự của Hoa Kỳ trên thị trường Hoa Kỳ. Nếu hàng nhập khẩu từ một nước đang bị điều tra được coi là không đáng kể (thường được xác định là nhỏ hơn 3% tổng giá trị nhập khẩu của sản phẩm bị điều tra), việc điều tra nước đó sẽ được dừng lại. Cũng có những quy định miễn trừ áp dụng những quy tắc lũy tích ví dụ như việc áp dụng đối với các nước được hưởng ưu đãi của Sáng kiến Lòng chảo Caribê (CBI) và đối với Ixaren. Luật chống phá giá còn cho phép các ngành công nghiệp Hoa Kỳ được khiếu nại về bán phá giá ở nước thứ ba. Ngành công nghiệp của Hoa Kỳ có thể đệ trình đơn khiếu nại lên USTR, trong đó phải giải thích tại sao việc bán phá giá ở nước thứ 3 lại gây thiệt hại cho các công ty của Hoa Kỳ và yêu cầu cơ quan này bảo vệ những quyền lợi của Hoa Kỳ theo quy định của WTO. Nếu USTR thấy khiếu nại có lý, họ sẽ đệ trình yêu cầu lên các cơ quan có thẩm quyền ở nước thứ ba đòi nước này phải thay mặt Hoa Kỳ tiến hành các biện pháp chống bán phá giá. DOC và USITC có trách nhiệm hỗ trợ USTR chuẩn bị nội dung yêu cầu. Đối với các nền kinh tế phi thị trường (NME) DOC quan niệm sự can thiệp của chính phủ ở những nước có nền kinh tế phi thị trường đã làm các số liệu về chi phí sản xuất và giá cả không phản ánh đúng giá trị thông thường của sản phẩm. Do vậy, đối với những vụ kiện bán phá giá liên quan đến các công ty ở những nước này, DOC không sử dụng phương pháp so sánh giá-với-giá hoặc giá trị tính toán để xác định giá trị thông thường của sản phẩm. Thay vào đó, DOC sử dụng một phương pháp hoàn toàn khác gọi là phương pháp “Các yếu tố sản xuất” để “xây dựng” giá trị thông thường của sản phẩm. Tiêu chí xác định qui chế kinh tế là kinh tế của nước bị kiện là kinh tế thị trường hay phi thị trường, DOC căn cứ vào 6 tiêu chí sau đây: (1) Mức độ chuyển đổi của đồng tiền; (2) Mức độ lương dựa trên cơ sơ thị trường; (3) Mức độ cho phép đầu tư nước ngoài ở nước bị kiện; (4) Mức độ chính phủ sử hữu và khống chế tư liệu sản xuất; (5) Mức độ chính phủ quản lý về giá và phân bổ các nguồn lực; và (6) Các yếu tố thích hợp khác. Hiện nay, Việt Nam vẫn bị Hoa Kỳ coi là nền kinh tế phi thị trường. Lý do Hoa Kỳ đưa ra để giải thích cho quyết định này là mặc dù Việt Nam đã có những bước mở cửa thị trường đáng kể và cho phép có giới hạn quy luật cung cầu tác động tới sự phát triển kinh tế, song mức độ can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế vẫn còn ở mức làm cho giá cả và chi phí sản xuất không phải là thước đo thực sự đối với giá trị. Qui chế kinh tế này sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ được áp dụng cho các vụ kiện chống bán phá giá mới và các đợt xem xét lại hàng năm cho đến khi có quyết định thay đổi của DOC. Ngoài Việt Nam, một số nước khác cũng còn bị Hoa Kỳ coi là có nền kinh tế phi thị trường, trong đó có Trung Quốc. Theo thỏa thuận song phương giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc về việc Trung Quốc gia nhập WTO, kinh tế Trung Quốc sẽ tiếp tục bị coi là phi thị trường trong các vụ kiện bán phá giá và chống trợ giá hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào Hoa Kỳ cho tới năm 2016. Giá trị thông thường trong trường hợp NME Đối với trường hợp kinh tế phi thị trường, các nhà sản xuất hàng bị điều tra phải cung cấp các thông tin và số liệu về loại và số lượng/khối lượng của các yếu tố đầu vào của sản xuất (nguyên liệu, lao động, nhiên liệu, các chi phí vốn, và các chi phí cần thiết khác). DOC “xây dựng” chi phí sản xuất trực tiếp của một đơn vị sản phẩm bằng cách nhân số khối lượng của các yếu tố đầu vào do bị đơn cung cấp với giá của các yếu tố đầu vào này ở nước thay thế. Sau đó, DOC sẽ cộng thêm một khoản các chi phí cố định (factory overhead cost), chi phí khấu hao, và các chi phí chung, bán hàng và hành chính (GSA) để tính ra toàn bộ chi phí sản xuất của một đơn vị sản phẩm. Chi phí sản xuất này cộng với lãi và chi phí đóng gói theo mức ở nước thay thế được coi là giá trị thông thường của sản phẩm. PHÂN TÍCH ÁP LỰC CẠNH TRANH CỦA PORTER Nhà cung ( không quá lớn) Các chỉ tiêu về chất lượng nước nuôi cá da trơn ở đồng bằng sông Cửu Long như pH, độ trong, DO, H2S, Nitrit... đều nằm trong ngưỡng cho phép và đạt tiêu chuẩn môi trường nuôi cá nước ngọt. Kết quả phân tích vi sinh E.Coli, Coliform... đạt loại B, được phép thu hoạch và sản xuất thực phẩm xuất khẩu vào EU, Hoa Kỳ, Australia.  Các nhà khoa học nhận định, Việt Nam hoàn toàn có khả năng tăng diện tích nuôi cá tra, cá ba sa lên gấp đôi, gấp 3 lần diện tích hiện nay tại vùng ven sông Tiền, sông Hậu nhưng công tác quản lý và xử lý nước thải từ vùng nuôi phải làm tốt. 3.2 Khách hàng ( Sẽ cao trong dài hạn) Mỹ là nước đông dân 307 triệu người ( 2009) Thu nhập bình quân đầu người: Cá là sản phẩm bổ dưỡng tốt cho sức khỏe. Một nghiên cứu gần đây cho thấy, mỡ cá basa Việt Nam (loại cá nước ngọt nuôi bè trên sông Mekong) không những có đủ thành phần axit béo không no mà còn chứa DHA. Trước đây, loại axit béo quan trọng này được xác định là chỉ có trong mỡ cá hồi, cá sọc, một số loài cá vùng biển sâu, vùng Greenland, Nhật Bản. Không chỉ tìm hiểu kỹ điều kiện của cơ sở chế biến, kinh doanh thủy hải sản mà họ còn muốn biết tường tận nguồn gốc của sản phẩm như: đã được đánh bắt hay nuôi từ vùng nào, sử dụng những loại thuốc gì, thức ăn ra sao, cách thức chăm sóc, các vấn đề về môi trường trong quá trình nuôi… Xu hướng của người tiêu dùng Mỹ hiện nay là sẵn sàng bỏ ra nhiều tiền hơn để có được những sản phẩm an toàn. 3.3. Đối thủ các đối thủ tiềm ẩn : (Cao) Sản phẩm cá tra Việt Nam đang chiếm 99,
Tài liệu liên quan