Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) những làn sóng đầu tư lớn đang đổ vào Việt Nam tạo nên sức cạnh tranh
lớn đối với các doanh nghiệp trong nước từ đó nảy sinh nhu cầu của nhiều doanh
nghiệp muốn mở rộng quy mô, gia tăng th ị phần. Trong bối cảnh đó không ít doanh
nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn hay phải đối mặt với nguy cơ phá sản và mua
bán sáp nhập doanh nghiệp trở thành một giải pháp hiệu quả đưa doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng này .
Cũng như hầu hết các công cụ, giải pháp của thị trường, hoạt động mua bán sáp
nhập doanh nghiệp cũng tồn tại những lợi ích quan trọng lẫn những tác động tiêu cực
đối với các bên tham gia và đối với nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của thị trường
mua bán doanh nghiệp có phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hay
không là tùy thuộc nhiều vào sự định hướng, quản lý của nhà nước để hoạt động này
phát triển đúng hướng và mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Mục đích đề tài này tìm hiểu về các lu ật mua bán sáp nhập trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Tuy rằng hiện nay doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin,
hiểu biết về các điều kiện, thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động này tại Việt Nam chưa được quy định cụ th ể, chưa có Lu ật chống độc
quyền như các nước trên thế giới, thông tin về các vụ mua bán sáp nhập công ty chưa
được cập nhật đầy đủ, thiếu tính minh bạch. nhưng thông qua luật đầu tư, luật cạnh
tranh, luật chứng khoán, luật doanh nghiệp và các thông tư nghị định, nhà nước cũng
đã thể hiện sự bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước sự thôn tính của các doanh
nghiệp nước ngoài. Đề tài đ ã nghiên cứu sự bảo vệ doanh nghiệp trong nước thông
qua hệ thống khung pháp lý và qua đó đề ra một số định hướng phát triển, hoàn thiện
khung pháp lý để đáp ứng phù hợp với xu thế phát triển của hoạt động mua bán sáp
nhập trong tương lai.
53 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2419 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế
giới (WTO) những làn sóng đầu tư lớn đang đổ vào Việt Nam tạo nên sức cạnh tranh
lớn đối với các doanh nghiệp trong nước từ đó nảy sinh nhu cầu của nhiều doanh
nghiệp muốn mở rộng quy mô, gia tăng thị phần. Trong bối cảnh đó không ít doanh
nghiệp đã rơi vào tình trạng khó khăn hay phải đối mặt với nguy cơ phá sản và mua
bán sáp nhập doanh nghiệp trở thành một giải pháp hiệu quả đưa doanh nghiệp thoát
khỏi tình trạng này.
Cũng như hầu hết các công cụ, giải pháp của thị trường, hoạt động mua bán sáp
nhập doanh nghiệp cũng tồn tại những lợi ích quan trọng lẫn những tác động tiêu cực
đối với các bên tham gia và đối với nền kinh tế. Sự tồn tại và phát triển của thị trường
mua bán doanh nghiệp có phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hay
không là tùy thuộc nhiều vào sự định hướng, quản lý của nhà nước để hoạt động này
phát triển đúng hướng và mang lại lợi ích cho nền kinh tế.
Mục đích đề tài này tìm hiểu về các luật mua bán sáp nhập trên thế giới cũng
như tại Việt Nam. Tuy rằng hiện nay doanh nghiệp Việt Nam chưa có nhiều thông tin,
hiểu biết về các điều kiện, thủ tục sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động này tại Việt Nam chưa được quy định cụ thể, chưa có Luật chống độc
quyền như các nước trên thế giới, thông tin về các vụ mua bán sáp nhập công ty chưa
được cập nhật đầy đủ, thiếu tính minh bạch... nhưng thông qua luật đầu tư, luật cạnh
tranh, luật chứng khoán, luật doanh nghiệp và các thông tư nghị định, nhà nước cũng
đã thể hiện sự bảo vệ các doanh nghiệp trong nước trước sự thôn tính của các doanh
nghiệp nước ngoài. Đề tài đã nghiên cứu sự bảo vệ doanh nghiệp trong nước thông
qua hệ thống khung pháp lý và qua đó đề ra một số định hướng phát triển, hoàn thiện
khung pháp lý để đáp ứng phù hợp với xu thế phát triển của hoạt động mua bán sáp
nhập trong tương lai.
2
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG MUA BÁN SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP (M&A)
VÀ KHUNG PHÁP LÝ TRÊN THẾ GIỚI
1.1 THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG M&A TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1 Thực trạng
Hoạt động M&A trên thế giới được hình thành rất sớm và phổ biến ở các nước
có nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh quyết liệt giữa các công ty với nhau.
Năm 2006 đã là một năm được mùa của những vụ sáp nhập, với tổng giá trị các
thương vụ kiểu này đã vượt quá kỷ lục của thời hoàng kim 2000 là 3330 tỷ USD.
Theo thống kê của hãng Dealogic, trong năm 2006, có gần 30.000 vụ M&A, tức là 77
vụ/ngày với giá trị 10 tỷ USD/ngày.
Tuy nhiên, về số lượng những vụ sáp nhập, con số năm 2006 (tổng cộng 28.312
thương vụ) lại giảm so với năm 2000 (31.019 thương vụ).
Năm 2006, nước Mỹ vẫn là trung tâm của những vụ sáp nhập, chiếm tới 36%
tổng giá trị của những vụ sáp nhập trên toàn cầu, với giá trị tuyệt đối đạt 1.220 tỷ
USD, giảm so với mức 46%, tương đương 1.530 tỷ USD của năm 2000.
Trong những năm vừa qua, hoạt động M&A cũng đã diễn ra khá sôi động ở
nhiều nước trên thế giới, cụ thể là ở các quốc gia châu Á. Hãng kiểm toán toàn cầu
Price Waterhouse Coopers (PwC) cũng đã công bố một bảng số liệu tổng quan về hoạt
động M&A của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2006, trong đó đề cập
và đưa ra nhiều thông tin về giá cả, số lượng các vụ M&A ở 14 nước trong khu vực.
3
Biểu đồ 1.1
Tuy làn sóng sáp nhập đã có từ nhiều năm qua, nhưng năm 2007 mới thực sự
diễn ra nhiều thương vụ lớn, mà giá trị của chúng vượt xa dự đoán của nhiều người.
Hoạt động M&A thế giới trong năm này đã chứng kiến những kỷ lục mới. Tổng trị giá
của các vụ mua bán sáp nhập đạt 4.400 tỷ, tăng 21% so với mức 3.600 tỷ USD vào
năm 2006. Mặc dù cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ đã khiến cỗ máy M&A quay
chậm lại trong nửa cuối của năm, tuy nhiên, nhìn trên tổng thể năm 2007, hoạt động
M&A đã gặt hái được nhiều thành công.
- Đáng kể nhất là vụ một nhóm ba ngân hàng do Ngân hàng Hoàng gia
Scotland dẫn đầu mua lại Ngân hàng ABN Amro của Hà Lan với giá 99 tỷ USD, đánh
dấu thỏa thuận mua lại lớn nhất đã hoàn thành trong năm.
- Trong khi đó, “đại gia” khai thác mỏ BHP Billiton cũng đưa ra đề nghị mua
lại đối thủ Rio Tinto với mức giá chưa từng có: 193 tỷ USD. Một khi hoàn tất, đây sẽ
là thỏa thuận mua lại lớn nhất từ trước đến nay.
4
- Khủng hoảng tín dụng ở Mỹ cũng khiến nhiều tập đoàn ngân hàng lớn ở nước
này phải bán cổ phần cho các nhà đầu tư đến từ nhiều khu vực khác nhau trên thế giới.
Điển hình là Citigroup bán cổ phần trị giá 7,5 tỷ USD cho cơ quan đầu tư Abu Dhabi
(ADIA) của Các tiểu vương quốc Arab thống nhất (UAE), Merrill Lynch bán cổ phần
6,2 tỷ USD cho tập đoàn Temasek của Singapore và một công ty khác của Mỹ, còn
Morgan Stanley bán cổ phần trị giá 5 tỷ USD cho công ty đầu tư vốn của Nhà nước
Trung Quốc.
- Các công ty đầu tư vốn tư nhân và các quỹ lợi ích quốc gia là hai lực lượng
mới nổi trên thị trường M&A trong năm qua. Với nguồn tiền dồi dào từ bán dầu mỏ,
các nhà đầu tư vùng Vịnh cũng tiến hành các vụ mua lại khắp thế giới. Tính ra, hiện
các nước giàu có tài nguyên năng lượng này đã đầu tư tới 4.000 tỷ USD trên toàn cầu.
- Năm 2007 cũng chứng kiến vụ "ly hôn” của “gia đình” ôtô DaimlerChrysler.
Ngày 4/10, DaimlerChrysler đã quyết định đổi tên thành Daimler, trút bỏ những tàn
tích cuối cùng của vụ mua lại hãng Chrysler vào năm 1998 với giá 40 tỷ USD.
Bảng số liệu tổng quan về hoạt động M&A của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương trong nửa đầu năm 2007:
5
Các vụ sáp nhập và mua lại lớn trên thế giới trong giai đoạn 2000-2007
(Xếp theo giá trị của các vụ mua lại và sáp nhập)
Nguồn:
Quý 1/2008, số lượng những thương vụ sáp nhập và mua lại (M&A) thấp nhất
trong 4 năm. Giá trị của những thương vụ sáp nhập và mua lại này trong quý 1 cũng
chỉ là 652 tỷ USD, giảm 40% so với cùng kỳ năm 2007. Đây là quý có hoạt động sáp
nhập và mua lại kém nhất từ năm 2004 theo tính toán của Dealogic - công ty phân tích
dữ liệu tài chính toàn cầu.
1.1.2. Xu hướng M&A trong thời gian tới
Đầu năm 2008 thị trường mua bán sáp nhập doanh nghiệp rất ảm đạm khi thị
trường thế giới biến động và chính sách tín dụng thắt chặt.
STT Năm Bên mua Bên bị mua Giá trị giao dịch
(triệu USD)
1 2000 Fusion: America Online
Inc. (AOL)
Time Warner 164,747
2 2007 Schwebend: Barclays
Plc
ABN-AMRO Holding
NV
90,839
3 2000 Glaxo Wellcome Plc. SmithKline Beecham
Plc.
75,961
4 2004 Royal Dutch Petroleum
Co.
Shell Transport &
Trading Co
74,559
5 2006 AT&T Inc. BellSouth Corporation 72,671
6 2001 Comcast Corporation AT&T Broadband &
Internet Svcs
72,041
7 2004 Sanofi-Synthelabo SA Aventis SA 60,243
8 2002 Pfizer Inc. Pharmacia Corporation 59,515
9 2007 JP Morgan Chase & Co Bank One Corp 58,761
6
Con số trên cho thấy ảnh hưởng của sự bùng nổ tín dụng và sự hỗn loạn trong
thị trường chứng khoán đã khiến những công ty ngần ngại ra sao khi bỏ tiền vào
những thương vụ sáp nhập và mua lại (M&A). Đồng thời điều này cũng đồng nghĩa
với việc nhân viên các ngân hàng đầu tư sẽ mất việc hàng loạt nếu hoạt động sáp nhập
và mua lại không có những cải thiện nhất định trong thời gian tới.
Sự sụt giảm trong số lượng thương vụ M&A gần đây đi kèm với sự đi xuống
của thị trường chứng khoán. Giá trị trái phiếu phát hành giảm một nửa trong quý 1.
Tuy môi trường kinh doanh toàn cầu hiện rất ảm đạm, song cũng cho rằng hoạt
động kinh doanh tại các thị trường mới nổi vẫn hết sức sôi động và giá hàng hóa tại
các thị trường này cũng đang tăng cao.
Một nguyên nhân nữa giúp các vụ sáp nhập trên thế giới không tuột dốc là do
xu hướng cổ phần hoá, tư nhân hoá đang trở nên phổ biến hơn ở nhiều nước, đặc biệt
là tại các nền kinh tế đang phát triển, tạo nguồn hàng dồi dào hơn cho các nhà đầu tư
đang có tiền nhàn rỗi.
Khu vực châu Á - Thái Bình Dương thường được lựa chọn để thực hiện các
thương vụ mua bán sáp nhập xuyên quốc gia nhiều nhất. Tiếp đó là các khu vực Tây
Âu, Đông Âu và Mỹ Latinh.
Nếu xét về quy mô trên mỗi vụ M&A người Mỹ vẫn tiếp tục thống trị, nhưng
năm 2007 là năm hoạt động M&A nở rộ ở Châu Âu. Theo những thống kê chưa đầy
đủ, các vụ sáp nhập ở châu lục chiếm tới 1/3 tổng giá trị các vụ mua bán, đổi chác trên
toàn cầu.
Trong năm 2007, thành công lớn nhất của các doanh nghiệp M&A quốc tế là
hoạt động thôn tính trên địa bàn Đông Âu. Khi phương Tây "Đông tiến" về chính trị
thì cũng là lúc các hoạt động kinh doanh M&A nở rộ về Đông. Hơn thế nữa với các
nước Đông Âu, mà trực tiếp là các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, những ngày
tháng của năm 2007 cũng là lúc hoạt động kinh doanh chín mùi sau quãng thời gian
chuyển đổi đau đớn. Cũng trên khía cạnh địa lý, giới quan sát quốc tế, dự đoán trong
năm 2008, xu hướng M&A vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, nhưng nó sẽ nhanh chóng
lan đến Châu Á mà Trung Quốc và Ấn Độ là những cơ hội đầu tư tuyệt vời mà các
7
nhà đầu tư đều muốn nhòm ngó. Khác với Đông Âu, tốc độ kinh tế ở khu vực diễn
biến nhanh hơn, và các hoạt động M&A cũng đang diễn ra mạnh mẽ, theo sau các
chương trình cổ phần hóa từ Trung Quốc tới Việt Nam. Năm 2006 và đặc biệt là năm
2007 được coi là năm cổ phần hóa của các nền kinh tế này, tuy nhiên sang năm 2008
và những năm tiếp theo sẽ là những năm của hoạt động sáp nhập. Bởi lúc đó doanh
nghiệp sau cổ phần hóa không chỉ bị sức ép của hội nhập quốc tế, mà ngay nội tại
doanh nghiệp áp lực phá khung, phá bỏ cơ cấu làm cũ cũng ngày một dữ dội.
Theo đánh giá của giới quan sát quốc tế, hoạt động mua bán sáp nhập doanh
nghiêp ở Châu Âu, đặc biệt là khu vực Đông Âu đang ngày một khắt khe hơn. Bởi sau
những vụ mua bán chộp giật, kiếm lời, các hoạt động M&A để phát triển - cốt lõi của
sáp nhập và mua bán - giờ mới tới thời. Tuy nhiên, việc tranh mua - tranh bán đã diễn
ra gay gắt, bởi thế người ta tin rằng nhanh chân tới Châu Á, đặc biệt là các nền kinh tế
mới nổi như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam là những quyết định đón đầu. Tới trước sẽ
không chỉ có được sự lựa chọn lớn hơn mà còn được trọng vọng. Kinh nghiệm các vụ
mua bán ở Đông Âu cho thấy, việc đi sau không chỉ tốn kém, mà hơn thế công cuộc
tái cơ cấu hoạt động hậu M&A cũng diễn ra hết sức phức tạp. Theo thống kê của tạp
chí Doanh Nhân (the Entrepreneur) có tới 50% doanh nghiệp M&A thừa nhận họ đã
sai lầm khi đánh giá thấp yếu tố thời gian trong quá trình đàm phát mua bán. 4/10
doanh nghiệp tuy có may mắn tới đích, nhưng tất cả số này đều dự đoán hụt thời
lượng có thể kết thúc thắng lợi đàm phán. Và đương nhiên cùng với kéo dài thời gian,
là tổn thất cả về giá cả, lẫn lỡ bước các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mới.
Trong tổng số các hoạt động M&A 2007, chỉ có 20% trong số đó giành được những
doanh nghiệp mà cơ cấu tổ chức, cũng như bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh
"ổn". Điều này một lần nữa khẳng định tính chất căng thẳng của loại hình kinh doanh
tri thức cao này. Tuy nhiên, cũng theo tờ Entrepreneur, tất cả các doanh nghiệp Châu
Âu vẫn tin tưởng vào hoạt động cổ phần sẽ tạo ra những cơ hội lớn để trẻ hóa hoạt
động của họ trên thương trường quốc tế. Cạnh tranh dữ dội đẩy hoạt động M&A mở
rộng về địa lý, nhưng cũng chính sự mở rộng địa lý này đã mở ra nhiều cơ hội hơn so
với những hoạt động M&A phình to về quy mô truyền thống.Có lẽ hơn cả người Châu
Á, các doanh nghiệp M&A từ Châu Âu và cả Bắc Mỹ hiểu hơn câu nói "đi một ngày
đàng học một sàng khôn" của chính người phương Đông. Bởi mỗi cuộc phiêu lưu mạo
8
hiểm trong kinh doanh lại lóe lên nhiều ý tưởng mới cho các nhà quản lý doanh
nghiệp.
1.2 PHÁP CHẾ CHỐNG ĐỘC QUYỀN TRÊN THẾ GIỚI
Trên thế giới, sáp nhập, mua lại được xem xét, điều tiết chủ yếu từ góc độ của
pháp luật về cạnh tranh theo cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế. Kiểm soát tập trung
kinh tế được thực hiện theo thủ tục hành chính, thủ tục xét xử tại toà án hoặc áp dụng
đồng thời cả hai thủ tục. Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy có nhiều cách
thức điều chỉnh bằng pháp luật khác nhau đối với cơ chế kiểm soát tập trung kinh tế:
bằng những luật chống độc quyền riêng biệt (như ở Áo, Tây Ban Nha, Canada, Đức,
Thuỵ Sỹ), bằng những luật chống độc quyền và những quy phạm chung trong Luật
Dân sự (như ở Italia, Pháp), bằng những luật chống độc quyền và bằng án lệ (như ở
Anh, Mỹ).
Nhìn chung, trên thế giới tồn tại hai mô hình chính của cơ chế kiểm soát tập
trung kinh tế là mô hình Mỹ và mô hình châu Âu.
- Mô hình Mỹ cấm tập trung kinh tế và độc quyền về mặt hình thức, được áp
dụng ở Mỹ, Canada, Arghentina và nhiều nước khác.
- Mô hình Châu Âu được xây dựng dựa trên nguyên tắc kiểm soát tập trung
kinh tế và hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Mô hình châu Âu kiểm soát tập
trung kinh tế cho phép đăng ký những dự án tập trung kinh tế không hạn chế đáng kể
cạnh tranh. Nhìn chung các điều khoản về sáp nhập, mua lại trong Luật Cạnh tranh ở
các nước theo mô hình Châu Âu không có tính bắt buộc. Cụ thể là không cần thiết
phải rà soát một cách hệ thống và thông qua tất cả các vụ sáp nhập, mua lại. Yêu cầu
thông báo về mọi vụ sáp nhập, mua lại sẽ tạo ra gánh nặng không đáng có cho cơ quan
quản lý, làm phát sinh các khoản chi phí không hợp lý và làm chậm quá trình sáp
nhập, mua lại. Mô hình châu Âu được áp dụng ở các nước Tây Âu, ở Úc, ở New
Zeland, Nam Phi.
1.2.1 Tóm tắt pháp chế chống độc quyền của Mỹ
Nước Mỹ được coi là một trong những quốc gia có môi trường kinh doanh, môi
trường cạnh tranh thông thoáng, trật tư, ổn định và khá bình đẳng. Nhờ môi trường
9
kinh doanh - cạnh tranh quốc gia này, một số doanh nghiệp của Mỹ đã đạt tới tầm cỡ
thống trị, thao túng, khống chế, kiểm soát một số ngành sản xuất - kinh doanh xuất
khẩu trên thị trường thế giới. Để có được môi trường kinh doanh - cạnh tranh như vậy
là do hệ thống luật pháp, chính sách của Mỹ trong lĩnh vực này nhằm vào 4 mục tiêu
kinh tế quan trọng nhất như sau:
- Trước hết, bảo vệ và duy trì cạnh tranh là mục tiêu trọng tâm bằng cách
không cho phép độc quyền, cấm cạnh tranh không lành mạnh và loại bỏ hành động
phân biệt và câu kết về giá.
- Thứ hai là bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bằng cách cấm những hình
thức kinh doanh, cạnh tranh thiếu công bằng, mang tính lừa dối.
- Thứ ba là bảo vệ những hãng kinh doanh với quy mô nhỏ và hoạt động độc
lập, tránh khỏi sức ép kinh tế do sự cạnh tranh của các hãng lớn gây ra.
- Thứ tư là nhằm vào điều chỉnh nhiều hơn tới các yếu tố chính trị và xã hội có
liên quan so với vấn đề kinh doanh và kinh tế.
Môi trường kinh doanh - cạnh tranh trong nước ở Mỹ được coi là trật tự, khá ổn
định ở chỗ đã áp dụng hình sự hoá các chế tài trong luật chống độc quyền và mặc dù
hầu hết các bang đều ban hành luật chống độc quyền, song các đạo luật như Sherman
năm 1890, Clayton năm 1914 (bổ sung làm rõ đạo luật Sherman); đạo luật của Uỷ ban
thương mại liên bang năm 1914; đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền năm 1976
của toàn liên bang vẫn được coi là cơ sở quyết định đối với tất cả các quy định cạnh
tranh - chống độc quyền tại nước Mỹ. Điều đáng lưu ý là đạo luật cải tiến lĩnh vực
chống độc quyền là một đạo luật tách biệt nhằm tăng cường quyền lực của chính phủ
Mỹ trong việc thi hành ba luật nêu trên. Tuy nhiên, ở Mỹ không phải tất cả mọi tổ
chức đều phải tuân thủ theo 4 đạo luật về chống độc quyền trên đây. Nghị Viện Mỹ đã
miễn trừ việc áp dụng một số quy định về chống độc quyền đối với những công đoàn
nỗ lực độc quyền trong việc cung cấp lao động; những hợp tác xã nông nghiệp đôi khi
tham gia vào những hành vi phản cạnh tranh; các công ty bảo hiểm chịu sự điều chỉnh
theo luật cạnh tranh của bang chứ không phải theo luật của liên bang...; một số vụ giao
dịch kinh doanh nhỏ liên quan đến vấn đề quốc phòng, an ninh và những hoạt động
nghiên cứu phát triển của các hợp tác xã.
10
Luật chống độc quyền của Mỹ được coi là thông thoáng ở chỗ quan điểm của
các toà án trong thực tiễn xét xử không coi việc tăng cường quy mô công ty bằng cách
sáp nhập, tập trung quyền lực kinh tế thống trị một ngành hay một thị trường một cách
chính đáng là vi phạm luật cạnh tranh, chống độc quyền. Đối với các công ty Mỹ, một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao năng lực cạnh tranh trong
xuất khẩu, thống trị kinh tế ngành và thị trường quốc tế là việc sáp nhập theo chiều
dọc và sáp nhập các tập đoàn. Việc này gần như trở thành xu thế chính với tốc độ cao
và số lượng lớn. Ví dụ, chỉ một thời gian ngắn từ 1981 - 1982 đã có tới 8 vụ sáp nhập
doanh nghiệp lớn với giá trị giao dịch từ 1 tỷ USD đến 7,8 tỷ USD. Tính riêng năm
1981, đã có tới 2.800 trường hợp sáp nhập công ty lớn, nhỏ với tổng số tiền 82,6 tỷ
USD được chi tiêu vào các hoạt động sáp nhập.
Tuy nhiên, giải pháp này phát huy tác dụng trong điều kiện một nền kinh tế
phát triển và tạo lợi thế về quy mô trong cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
Nhưng với một nền kinh tế đang phát triển và việc sáp nhập công ty để đối phó với
cạnh tranh trên thị trường nội địa là chính (tiến tới độc quyền) thì không thể nâng cao
được năng lực cạnh tranh trong xuất khẩu của các công ty. Vì không có sự cạnh tranh
trên thị trường nội địa một cách gay gắt để tồn tại thì doanh nghiệp làm sao nâng cao
được năng lực cạnh tranh xuất khẩu trên thị trường quốc tế.
1.2.1.1 Luật Sherman
Luật Sherman (02/07/1890) là hành động đầu tiên của chính phủ Hoa Kỳ nhằm
hạn chế cartels và độc quyền. Đây là luật chống tờ rớt lâu đời nhất của Liên bang Mỹ.
Luật được tổng thống Benjamin Harrison ký vào năm 1980 và được đặt theo
tên của tác giả - Thượng Nghị Sĩ John Sherman.
Sherman Act gồm có 7 điều luật. Mục tiêu của đạo luật: phản đối sự liên kết
của những thực thể mà có thể gây thiệt hại cho sự cạnh tranh, ví dụ như độc quyền hay
cartels. Tính tham khảo của đạo luật này đối với những tờ rớt của ngày nay đã lỗi thời.
Vào thời điểm thông qua đạo luật, tờ rớt đồng nghĩa với hành động độc quyền, vì tờ
rớt là một cách phổ biến để những nhà độc quyền nắm giữ công ty của họ, và là một
cách cho những thành viên của cartels tạo ra những hiệp định có thể thi hành được.
11
Luật Sherman vốn bị giảm hiệu lực qua vụ Standard Oil Co. of New Jersey
(1911).
1.2.1.2 Luật Clayton
Đạo luật Clayton (1914) được ban hành ở Mỹ nhằm bổ sung cho luật chống tờ
rớt của Mỹ bằng cách ngăn chặn những hành động phi cạnh tranh trong giai đoạn phôi
thai của nó.
Đạo Luật Clayton ra đời nhằm cứu vãn luật Sherman, theo đó luật đưa những
vụ sáp nhập bằng cổ phiếu vào đối tượng bị cấm. Mặc dù vậy, các công ty Mỹ lại dễ
dàng lách luật bằng cách thực hiện sáp nhập mua lại tài sản (vụ Thatcher
Manufacturing Co. v. FTC - 1926).
1.2.1.3 Đạo luật Ủy ban thương mại liên bang
Quốc hội (bao gồm Thượng nghị viện và hạ nghị viện ) ban hành đạo luật Ủy
Ban thương mại Liên bang năm 1914.
Nó thiết lập một cơ quan điều chỉnh độc lập - Ủy ban thương mại liên bang và
tạo cho tổ chức này quyền lực để làm cho luật Clayton và luật Robinson Patman có
hiệu lực (trừ luật Sherman) và không thừa nhận “hành vi cạnh tranh không công bằng
ngay cả khi hành vi này xâm phạm đến nội dung hay tinh thần của luật chống tờ rớt”.
Được sửa đổi vào năm 1937 bởi Wheeler-Lea Amendments, đạo luật FTC hiện
nay cũng ngăn cấm những đạo luật hay thủ đoạn cạnh tranh không công bằng hay dối
trá.
Đạo luật FTC là centerpiece của chế độ bảo vệ người tiêu dùng Liên bang.
Thêm vào đó, Ủy ban thương mại Liên bang còn bắt buộc thi hành những đạo luật bảo
vệ người tiêu dùng khác, bao gồm đạo luật Truth- in- Lending, đạo luật Fair Credit
Reporting, đạo luật Fair Packaging and Labeling. Nói chung quyền lực của FTC nhằm
phân tích những giới hạn về luật bằng cách đặt ngoài vòng pháp luật những cách thức
cạnh tranh không công bằng mặc dù không vi phạm luật Sherman hay Clayton về khía
cạnh technical, tuy nhiên có vẻ như vi phạm những chính sách của những đạo luật đó.
12
1.2.1.4 Celler Kefauver
Đạo luật Celler Kefaufer