Triết học có lịch sử ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại các trung tâm văn hoá - văn minh cổ đại Trung Quốc, Ấn độ và Hy Lạp. Trải qua một quá trình phát triển của lịch sử, triết học có ảnh hưởng hết sức lâu dài trong lịch sử văn hoá phương Đông và phương Tây. Triết học được coi là khoa học của mọi khoa học, với ý nghĩa bao quát trong nó mọi tri thức, đều có căn nguyên lịch sử từ sự phát triển chưa đầy đủ của tri thức nhân loại. Triết học với tư cách là một khoa học, có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cơ bản, có tính định hướng cho cả quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong lịch sử nhận thức và thực hiện của nhân loại, triết học thông qua hai chức năng thế giới quan và phương pháp luận của mình để giải thích về thế giới, định hướng cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Do vậy xây dựng một thế giới quan triết học đúng đắn khoa học là tiền đề để xây dựng một phương pháp luận chuẩn xác trong nhận thức và thực tiễn. Thế giới quan và phương pháp luận triết học khoa học trong thời đại ngày nay thuộc về triết học Mác-Lênin. Thế giới quan và phương pháp luận ấy xuất phát từ việc giải quyết một cách khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Do đó, muốn nắm vững những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận thì cần phải hiểu rõ về triết học.
Trong triết học có đề cập đến chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận hình thái kinh tế-xã hội là lý luận cơ bản nhất, vạch ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc của các cá nhân, mà là một hệ thống vận động phát triển theo các quy luật khách quan. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Ngày nay, mặc dầu nhân loại đã và đang có nhiều thay đổi nhưng lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Lý luận đó cũng luôn luôn được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhận thấy được tầm quan trọng về lý luận hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa phương pháp luận của nó cũng như sự vận dụng một cách khoa học và linh hoạt vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), em quyết định chọn đề tài nghiên cứu : "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài bao gồm hai nội dung chính :
Ÿ Phần I : Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội
Ÿ Phần II : Vận dụng hình thái kinh tế -xã hội vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
12 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận hình thái kinh tế - Xã hội và vận dụng nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Triết học có lịch sử ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên tại các trung tâm văn hoá - văn minh cổ đại Trung Quốc, ấn độ và Hy Lạp. Trải qua một quá trình phát triển của lịch sử, triết học có ảnh hưởng hết sức lâu dài trong lịch sử văn hoá phương Đông và phương Tây. Triết học được coi là khoa học của mọi khoa học, với ý nghĩa bao quát trong nó mọi tri thức, đều có căn nguyên lịch sử từ sự phát triển chưa đầy đủ của tri thức nhân loại. Triết học với tư cách là một khoa học, có nhiệm vụ nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó xây dựng thế giới quan và phương pháp luận cơ bản, có tính định hướng cho cả quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong lịch sử nhận thức và thực hiện của nhân loại, triết học thông qua hai chức năng thế giới quan và phương pháp luận của mình để giải thích về thế giới, định hướng cho quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Do vậy xây dựng một thế giới quan triết học đúng đắn khoa học là tiền đề để xây dựng một phương pháp luận chuẩn xác trong nhận thức và thực tiễn. Thế giới quan và phương pháp luận triết học khoa học trong thời đại ngày nay thuộc về triết học Mác-Lênin. Thế giới quan và phương pháp luận ấy xuất phát từ việc giải quyết một cách khoa học vấn đề cơ bản của triết học. Do đó, muốn nắm vững những vấn đề về thế giới quan và phương pháp luận thì cần phải hiểu rõ về triết học.
Trong triết học có đề cập đến chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, lý luận hình thái kinh tế-xã hội là lý luận cơ bản nhất, vạch ra xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc của các cá nhân, mà là một hệ thống vận động phát triển theo các quy luật khách quan. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Ngày nay, mặc dầu nhân loại đã và đang có nhiều thay đổi nhưng lý luận đó vẫn nguyên giá trị. Lý luận đó cũng luôn luôn được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Nhận thấy được tầm quan trọng về lý luận hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa phương pháp luận của nó cũng như sự vận dụng một cách khoa học và linh hoạt vào điều kiện cụ thể của Việt Nam trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), em quyết định chọn đề tài nghiên cứu : "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và vận dụng nó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta".
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài bao gồm hai nội dung chính :
Phần I : Khái quát chung về hình thái kinh tế - xã hội
Phần II : Vận dụng hình thái kinh tế -xã hội vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Phần I : Khái quát chung về
hình thái kinh tế - xã hội
I. Hình thái kinh tế - xã hội sự phát triển của quá trình lịch sử tự nhiên
1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động với tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên. Trên cơ sở phân tích các mặt trong đời sống xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Các Mác đã đi đến khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C.Mác đã vạch ra quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hệ khác, nó quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. Trong tác phẩm của mình, Mác đã viết "tổng hợp lại thì những quan hệ sản xuất hợp thành cái mà người ta gọi là những quan hệ xã hội và hơn nữa hợp thành một xã hội ở vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng biệt. Xã hội thời cổ, xã hội phong kiến, xã hội tư bản đều là những tổng thể quan hệ sản xuất như vậy, mỗi tổng thể đó đồng thời lại đại biểu cho một giai đoạn phát triển đặc thù trong lịch sử nhân loại.
Căn cứ vào các tư tưởng của Mác và Lênin, các nhà triết học macxit đã nêu ra các định nghĩa về hình thái kinh tế - xã hội.
Theo G.E Glê-dec-man, hình thái kinh tế - xã hội là một giai đoạn lịch sử nhất định trong sự phát triển của xã hội mà cơ sở của nó là một phương thức sản xuất đặc trưng chỉ riêng cho nó. Đó không phải là xã hội "chung chung" mà là xã hội thuộc một kiểu nhất định, hoặc là phong kiến hoặc là tư bản chủ nghĩa hoặc là cộng sản chủ nghĩa ...
Trong cuốn từ điển triết học, hình thái kinh tế - xã hội là kiểu xã hội có tính lịch sử dựa trên cơ sở một phương thức sản xuất nhất định và biểu hiện từ chế độ nguyên thuỷ qua chế độ nô lệ, phong kiến và tư bản đến hình thái cộng sản.
Trong giáo trình của nhà trường, hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Như vậy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Trong đó lực lượng sản xuất là cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Suy cho cùng, sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
2. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
Các mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động và phát triển. Theo Mác, xã hội vận động và phát triển theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Theo Lênin, sự vận động của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người. Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc thù. Quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là các quy luật chi phối sự vận động, phát triển của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật phổ biến khác. Bên cạnh các quy luật phổ biến, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn bị chi phối bởi các quy luật đặc thù, các quy luật riêng có của từng hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Việc nắm vững các quy luật vận động, phát triển phổ biến của xã hội là hết sức cần thiết nhưng chưa đủ. Vì mỗi hình thái kinh tế - xã hội lại có những quy luật đặc thù chi phối nên đòi hỏi phải làm sáng tỏ những quy luật lịch sử riêng biệt đang chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và sự diệt vong của một cơ thể xã hội nhất định và sự thay thế cơ thể xã hội đó bằng một cơ chế xã hội khác cao hơn. Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp lên cao - đó là con đường phát triển chung của nhân loại.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đem lại cho khoa học xã hội một phương pháp thực sự khoa học. Học thuyết đã chỉ ra sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên không thế xuất phát từ ý thức tư tưởng, từ ý chí của người cầm quyền để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội. Học thuyết cũng chỉ ra xã họi không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
Học thuyết còn chỉ ra sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của đời sống xã hội.
Hiện nay loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Tuy nhiên học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.
II. Vận dụng lý luận hình thái KT-XH vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta
1. Việc lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN
Sau khi xây dựng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, Mác đã vận dụng học thuyết đó vào phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của xã hội và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.
Nước ta tiến lên CNXH từ một xuất phát điểm rất thấp, đó là một quốc gia nông nghiệp lạc hậu trải qua liên tiếp chiến tranh. Vì vậy, Đảng ta đã lựa chọn con đường quá độ đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Sự lựa chọn này đã được Đảng ta xác định ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đầu năm 1930 do Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là đồng chí Trần Phú soạn thảo và ghi rõ : "Cách mạng Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến thẳng lên làm cách mạng XHCN mà không kinh qua chế độ TBCN".
Sự lựa chọn này là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Từ khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới (năm 1986), cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế Đảng ta đổi mới tư duy lý luận kinh tế và nhận thức được rằng, chúng ta bỏ qua CNTB chỉ là bỏ qua CNTB với ý nghĩa là một phương thức sản xuất đẻ ra quan hệ bóc lột và những bất công, chỉ bỏ qua các quan hệ sản xuất TBCN với ý nghĩa nó là một quan hệ thống trị nền kinh tế, chỉ bỏ qua tính chát hiếu chiến và thủ đoạn bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản. Nhưng chúng ta không bỏ qua nên kinh tế hàng hoá và những quan hệ kinh tế vốn có của nó; không bỏ qua những thành quả về mặt khoa học kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý của nền sản xuất lớn tiên tiến của CNTB; không bỏ qua những kinh nghiệm những lý thuyết kinh tế mà CNTB đã bỏ qua nhiều thế kỷ để hình thành và tạo lập cho nhân loại; không bỏ qua những quy luật kinh tế khách quan, những cơ chế kinh tế tạo ra sức mạnh động lực thúc đẩy nền kinh tế.
2. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại, nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định, kết quả của quá trình phân công lao động xã hội, của đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đồng thời nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Việc xây dựng và phát triển nên kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đảng ta khẳng định "mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liên với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước XHCN. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường; áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
3. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng CNXH
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là chưa có nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.
Đảng ta đã chỉ rõ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự; vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới nền khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới".
4. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội
Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Kết luận
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện nay học thuyết này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Học thuyết này đem lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.
Học thuyết này đã khẳng định sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội; xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc mà là một cơ thể sống rất sinh động, trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác. Học thuyết cũng chỉ ra sự phát triển các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không theo ý muốn chủ quan, cho nên muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
Thông qua việc nghiên cứu sâu sắc về bản chất của học thuyết này, Đảng ta đã xác định đúng đắn con đường đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN. Đây là sự lựa chọn rất đúng đắn của Đảng ta, đồng thời Đảng ta thừa nhận trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Để thực hiện theo đúng mục tiêu đã đề ra cũng như rút ngắn thời kỳ quá độ, chúng ta cần phải tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá hoặc theo tuần tự hoặc nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai. Ngoài việc phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chũng ta không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao vai trò của quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phát triển văn hoá ... nhằm thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"
Mục lục
Trang