Ngành dệt may Việt Nam vốn là một trong những ngành truyền thống và có thế mạnh từ lâu trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển của ngoại thương, ngành dệt may cũng vươn lên chiếm một vị trí quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ sau dầu thô). Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng vào vấn đề phát triển ngành dệt may, coi đây là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trong tương lai.
101 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Marketing quốc tế và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Ngành dệt may Việt Nam vốn là một trong những ngành truyền thống và có thế mạnh từ lâu trong lịch sử phát triển của dân tộc. Đến nay, cùng với sự phát triển của ngoại thương, ngành dệt may cũng vươn lên chiếm một vị trí quan trọng, đạt kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (chỉ sau dầu thô). Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng vào vấn đề phát triển ngành dệt may, coi đây là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam trong tương lai. Chính sách Đổi mới đã " mở " cho ngành dệt may Việt Nam vươn ra thị trường thế giới rộng lớn như EU, Nhật Bản, các nước khác... Song đến nay, một số thị trường truyền thống đã bộc lộ nhiều bất lợi: Thị trường EU thiếu quota, thị trường Nhật Bản cũng bị hạn chế. Trước tình hình đó, việc tìm kiếm và thâm nhập các thị trường mới đang là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Trong số các thị trường mới, Bắc Mỹ là một thị trường giàu tiềm năng mà chúng ta không thể bỏ qua, nhất là trong điều kiện thuận lợi như hiện nay, bởi lẽ mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và các nước Bắc Mỹ ( đặc biệt là Mỹ ) có nhiều tiến triển tốt đẹp. Tuy nhiên để thâm nhập thị trường này, khó khăn cũng không phải là nhỏ. Làm thế nào để các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tận dụng được thời cơ thâm nhập thị trường, đứng vững và phát triển sản phẩm của mình trên thị trường Bắc Mỹ? Câu hỏi đó cũng khẳng định tính cấp thiết của tình hình hiện nay.
Xuất phát từ những bức xúc đó, tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài : " Marketing quốc tế và vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ " cho- khoá luận tốt nghiệp của mình. Cần nhấn mạnh rằng, phạm vi nghiên cứu của đề tài là thị trường Bắc Mỹ mở rộng thuộc khối thương mại tự do Bắc Mỹ(NAFTA) hiện nay, gồm 3 nước là Mỹ, Canada và Mêhicô. Nội dung khoá luận được kết cấu theo ba chương như sau:
Chương I: Những vấn đề lí luận chung về Marketing quốc tế và tổng quan về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ.
Chương II: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Bắc Mỹ.
Chương III: Định hướng và giải pháp Marketing cho cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ.
Do những hạn chế về thời gian, về tài liệu và kiến thức của người viết, chắc chắn khoá luận này không tránh khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của các thầy cô giáo và góp ý của đông đảo độc giả. Qua đây, tác giả cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo Trường đại học Ngoại thương đã hướng dẫn tác giả hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Chương I:Những vấn đề lí luận chung về Marketing quốc tế và tổng quan về thị trường hàng dệt may Bắc Mỹ
I. Những vấn đề lý luận chung về Marketing quốc tế
1. Khái quát chung về Marketing quốc tế và vấn đề cạnh tranh quốc tế hiện nay
1.1. Các định nghĩa về Marketing quốc tế
Từ đầu thế kỷ 20, thuật ngữ Marketing và Marketing quốc tế (International Marketing) bắt đầu được nhắc nhiều trong các sách báo ở nước Mỹ, trong chương trình giảng dạy của các trường đại học cũng như trong chiến lược phát triển kinh doanh của các tập đoàn. Hiện nay, trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới có tới trên 2000 định nghĩa khác nhau về Marketing, dù về thực chất thì cũng không khác nhau lắm, nhưng chưa có định nghĩa nào là duy nhất đúng vì mỗi tác giả định nghĩa về Marketing quốc tế đều xuất phát từ mỗi góc độ nghiên cứu và nhìn nhận khác nhau.
Thực vậy, theo định nghĩa của Hiệp hội Marketing Mỹ (Mỹ là quê hương của thuật ngữ Marketing quốc tế) : " Marketing quốc tế là một quá trình đa quốc gia để lập ra kế hoạch và thực hiện các chính sách giá, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh, chính sách phân phối hàng hoá, ý tưởng hay dịch vụ để tiến hành hoạt động trao đổi nhằm thoả mãn mục đích của các tổ chức cá nhân " [30].
Theo khái niệm của I. Ansoff: "Marketing quốc tế là khoa học về lĩnh vực trao đổi, theo đó toàn bộ hoạt động sản xuất- tiêu thụ của công ty đều căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường thế giới (lấy nhu cầu của thị trường thế giới làm định hướng).
Theo giáo sư Philip. R. Cateora: " Marketing quốc tế là sự tiến hành hoạt động kinh doanh hướng tới dòng sản phẩm từ công ty tới người tiêu dùng trên phạm vi nhiều nước nhằm thu được lợi nhuận dự kiến (Target profit) ".
Theo cuốn "International Marketing" của hai giáo sư Vern Tepstra và Ravi Sarathy, " Marketing quốc tế là các hoạt động bao gồm những hình thức kinh doanh như : xuất nhập khẩu, sản xuất ở nước ngoài, liên doanh liên kết với công ty nước ngoài chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, quyền công nghệ, bí quyết sản xuất kinh doanh" [31].
International Marketing cũng được hiểu là hoạt động thị trường quốc tế và bản chất của nó gắn liền với nghiên cứu về thị trường quốc tế. Như vậy, theo cách hiểu đó, " Marketing quốc tế là việc đánh giá đúng nhu cầu của thị trường, và khả năng thực tế của doanh nghiệp, từ đó xây dựng chiến lược kinh doanh cho sản phẩm của mình, nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của từng thị trường nước ngoài và thu được lợi nhuận tối ưu".
Vì thế, nội dung và kết cấu của khoá luận được xây dựng theo quan niệm trên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
1.2. Bản chất và đặc trưng của Marketing quốc tế
Yếu tố cốt lõi trong Marketing quốc tế chính là thị trường quốc tế. Trong bất kỳ thị trường nào, hai trục cung và cầu luôn đóng vai trò chi phối toàn bộ hoạt động, đặc tính của thị trường đó. Bản chất của Marketing quốc tế xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng nước ngoài: tìm nhu cầu và thoả mãn tốt nhất nhu cầu. Marketing quốc tế chính là chìa khoá giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh : đó là lợi nhuận và mở rộng thị trường tiêu thụ.
Đặc trưng của Marketing quốc tế (khác với Marketing quốc gia) chính là sự di chuyển qua biên giới quốc gia của các sản phẩm (Object), sự khác nhau về quốc tịch của các chủ thể mua bán (Subject), đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với ít nhất một trong các bên, hành trình phân phối kéo dài cả về không gian và thời gian, vòng đời sản phẩm phải được kéo dài hơn so với trong nước và sự việc xây dựng kế hoạch chiến lược phải được cụ thể hoá cho từng quốc gia cụ thể. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động dù vươn ra thị trường quốc tế nhưng Marketing quốc tế vẫn phải đảm bảo những nội dung cơ bản, đó là:
Thứ nhất, phân tích và dự báo thị trường trên cơ sở phân tích nhu cầu khách hàng, tình hình cạnh tranh, các trung gian phân phối, phân tích môi trường chính trị, kinh tế, công nghệ.
Thứ hai, hoạch định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu và đIều kiện thị trường, tác động đến nhu cầu thị trường bằng các chính sách sản phẩm giá cả, phân phối, yểm trợ.
Marketing quốc tế cũng không có nghĩa là Marketing trong nước trên một phạm vi rộng hơn, vì Marketing trong nước thì chỉ liên quan đến những yếu tố môi trường (không kiểm soát được) trong nước, còn Marketing quốc tế liên quan đến hàng loạt các yếu tố không kiểm soát được của nhiều nước khác nhau: môi trường văn hoá, hệ thống tiền tệ, môi trường chính trị, pháp luật.
Marketing quốc tế được xét trong phạm vi đề tài này sẽ đi sâu hơn vào Marketing xuất khẩu: sản xuất những sản phẩm thích ứng theo những tiêu chuẩn, những đòi hỏi của thị trường nước ngoài. Đó là trong giai đoạn hiện nay. Còn với tầm nhìn chiến lược xa hơn, Marketing quốc tế sẽ đi sâu vào những mảng nghiệp vụ khác nhau, nghiên cứu dự đoán thị trường, các nhà quản lí Marketing vạch ra chiến lược không những chỉ xuất khẩu mà còn nhiều loại hình kinh doanh khác như lập xí nghiệp liên doanh, trao đổi khoa học công nghệ, đại lý, bán bản quyền, sản xuất và gia công. Với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế như hiện nay, các hoạt động Marketing quốc tế của doanh nghiệp hướng tới giai đoạn " Marketing toàn cầu" mà thị trường thế giới được xem như một thị trường thống nhất, tương đồng về văn hoá, sở thích, xu hướng tiêu dùng...ở thị trường các nước khác nhau. Đó chính là xu hướng phát triển trong nội dung của Marketing quốc tế.
1.3 Chức năng cơ bản của Marketing quốc tế.
Thị trường nước ngoài và thị trường trong nước dĩ nhiên có sự khác biệt rất lớn. Nếu các doanh nghiệp muốn sử dụng "chìa khoá" kinh doanh quốc tế thì phải chú trọng những chức năng cơ bản sau của Marketing quốc tế.
Nghiên cứu thị trường thế giới để nhận biết và dự báo một cách chính xác biến động của thị trường.
Xây dựng các chiến lược Marketing quốc tế có hiệu quả trên cơ sở đánh giá toàn diện các yếu tố khách quan về môi trường và thị trường cũng như các yếu tố chủ quan của bản thân doanh nghiệp.
Tổ chức thực hiện thành công các chiến lược Marketing quốc tế nói trên thông qua cơ chế quản lí điều hành năng động và hệ thống thông tin nhanh nhạy.
Kiểm tra điều chỉnh kịp thời hoạt động kinh doanh sao cho giảm thiểu những rủi ro và khai thác tối đa những cơ hội kinh doanh nhằm đảm bảo có hiệu quả tối ưu.
2. Cạnh tranh quốc tế và những cơ hội, thách thức hiện nay
Trong cơ chế kinh tế thị trường, người ta luôn luôn phải chú trọng đến ba quy luật cơ bản: quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh,và quy luật cung cầu. Trong đó quy luật cạnh tranh chính là động lực của quá trình phát triển. Thật vậy, cạnh tranh là một trong những quy luật tất yếu của nền sản xuất hàng hoá.Trên thực tế, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì qui mô và mức độ cạnh tranh càng cao. Đứng trên góc độ doanh nghiệp,cạnh tranh là quá trình giành giật những lợi thế từ phía đối thủ về phía mình nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của doanh nghiệp. Cạnh tranh là áp lực bên ngoài buộc các nhà doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để nâng cao năng suất lao động, đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng và giá cả hợp lý, mở rộng kinh doanh, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp. Cạnh tranh lành mạnh như là một động lực quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lí, là điều kiện để giáo dục tính năng động, nhạy bén và óc sáng tạo của những nhà doanh nghiệp.
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, với nền kinh tế mở và xu hướng quốc tế hoá, bất luận lĩnh vực, ngành hàng nào cũng phải đối mặt với quá trình cạnh tranh gay gắt hơn. Bởi lẽ, thị trường nào cũng có sự ngăn cách giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bản thân các doanh nghiệp cũng không bao giờ tự bằng lòng với phần thị trường mình chiếm lĩnh được (vì như vậy có nghĩa là chấp nhận bị tiêu diệt, mà điều này rất nguy hiểm), mà luôn tìm cách vươn lên, mở rộng thị trường. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp phải có khả năng cạnh tranh và phải cạnh tranh có hiệu quả. Vì vậy, xây dựng một chiến lược cạnh tranh với những công cụ, biện pháp thích hợp nhằm phát triển khả năng cạnh tranh - là cơ sở đảm bảo giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường.
2.1. Tính chất khốc liệt của cạnh tranh quốc tế hiện nay
Bản thân câu : "Thương trường như chiến trường" - đã khẳng định tính khốc liệt của cạnh tranh trên thương trường. Cạnh tranh trong thị trường nội địa đã khốc liệt, nhưng cạnh tranh trên thị trường thế giới còn khốc liệt và gay gắt hơn rất nhiều lần. Nhưng để giành giật lợi nhuận và thị trường, các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh như một quy luật tất yếu, phải ganh đua với nhau, phải luôn không ngừng tiến bộ để giành ưu thế vượt trội so với đối thủ. Nếu như lợi nhuận là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì cạnh tranh buộc họ phải tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả nhất nhằm thu được lợi nhuận tối ưu.
Nói tới cạnh tranh là nói tới thị trường, và ngược lại nói tới thị trường là nói tới cạnh tranh. Từ thế kỷ 17, cạnh tranh kinh tế thị trường vẫn được tiến hành tập trung vào bốn trọng điểm mà ngày nay vẫn là vấn đề thời sự: bảo hộ mậu dịch, chiếm lĩnh công nghệ, chinh phục lãnh thổ và chiến tranh giá cả.
Sau chiến tranh lạnh, cạnh tranh quốc tế trở nên quyết liệt hơn. Thế giới từ hai cực đối đầu chuyển sang đa cực với đặc điểm là ưu thế của an ninh quân sự nhường chỗ cho an ninh kinh tế, xã hội và môi trường. Các nước đều ưu tiên phát triển và cải thiện vị thế của mình trong trật tự kinh tế quốc tế mà điều này chỉ có thể có được bằng sự thắng lợi trong cạnh tranh kinh tế quốc tế trên thị trường thế giới.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế hiện nay khốc liệt hơn bởi nhiều lí do. Trước hết là sự suy yếu tương đối của Mỹ (về kinh tế) so với sự nổi lên và độc lập tương đối của Nhật bản và EU cùng với các nước NICS (Châu á). Hai là, quá trình quốc tế hoá đang đi đến nấc thang toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, cung vượt quá cầu và sự cạnh tranh tất yếu sẽ trở lên khốc liệt hơn. Quá trình này được đẩy nhanh từng giờ, từng phút chính từ sự bùng nổ của khoa học công nghệ thông tin. Nền kinh tế “số hoá” kể từ đầu thập niên 90 với công nghệ World Wide Web phát triển đã tác động đến mọi mặt của nền kinh tế xã hội và đặc biệt là Marketing quốc tế. Nó không chỉ tạo ra cách thức giao tiếp, trao đổi mới mà còn tạo ra các công ty theo mô hình và cách thức tiến hành kinh doanh mới. Các sản phẩm giá trị gia tăng cũng như hình thức tiêu dùng mới. Ba là, tầm quan trọng của các cường quốc kinh tế đang tăng lên, tầm quan trọng của sức mạnh kinh tế đang được đẩy lên hàng đầu. Bốn là, từ sau đại chiến thế giới thứ hai, những vòng đàm phán về thương mại nối tiếp nhau trong khuôn khổ GATT đã dẫn đến một sự giảm bớt đầy kinh ngạc về hàng rào thuế quan và sự tăng trưởng của nền thương mại thế giới. Kể từ sau vòng đàm phán Uruguay cùng với việc mở rộng dần điều kiện mậu dịch quốc tế theo xu hướng tự do hoá thương mại, đẩy những cuộc cạnh tranh quốc tế lên những nấc thang cao hơn. Sân chơi "bằng phẳng" hơn và luật chơi càng thoáng, rõ ràng hơn làm cho các cuộc cạnh tranh cũng càng trở nên quyết liệt hơn.
2.2. Những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế
Bất kỳ một doanh nghiệp nào,khi bước ra khỏi thị trường nội địa để tham gia vào thị trường thế giới, đều không thể phủ nhận được sự tồn tại cũng như tính khốc liệt của cạnh tranh quốc tế. Vậy thì, muốn tồn tại và đứng vững để tham gia một "cuộc chơi" các doanh nghiệp buộc phải tìm hiểu luật chơi, mà trước tiên phải tìm hiểu được tính chất, những yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế, để từ đó chuẩn bị cho mình vũ khí cạnh tranh có hiệu quả nhất.
Nói về khả năng cạnh tranh, hay năng lực cạnh tranh, thuật ngữ này được sử dụng rất rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong sách báo chuyên môn, ngay cả trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các nhà kinh doanh. Song cho đến nay vẫn chưa có sự nhất trí cao trong giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường, phân tích năng lực cạnh tranh cả ở cấp doanh nghiệp hay phạim vi quốc tế. Đối với một số người " khả năng cạnh tranh" chỉ có ý nghĩa rất hẹp, được thể hiện qua các chỉ số về tỷ giá thực trong mối quan hệ thương mại. Trong khi đó, thực tế khái niệm khả năng còn bao gồm khả năng sản xuất hàng hoá dịch vụ đáp ứng đòi hỏi cạnh tranh quốc tế và yêu cầu đảm bảo mức sống cao cho người dân trong nước. Theo Micheal Porter (Đại học Havard) trong cuốn "lợi thế cạnh tranh của các quốc gia" (1990): yếu tố quyết định cạnh tranh chính là năng suất. Còn theo Krugman (1994): "khả năng cạnh tranh" chỉ phù hợp ở mức độ công ty, nếu công ty không đủ khả năng bù đắp chi phí thì phải từ bỏ kinh doanh. Còn theo "Quan điểm quản trị chiến lược" cũng của Micheal Porter thì yếu tố quyết định khẳ năng cạnh tranh dù trong hay ngoài nước cũng được quy định bởi 5 yếu tố, đó là:
Số lượng các công ty mới tham gia vào một ngành (đe doạ cạnh tranh của các doanh nghiệp sẽ gia nhập ngành)
Sự có mặt (hay thiếu vắng) những sản phẩm thay thế.
Vị thế của nhà cung ứng.
Vị thế của bên tiếp nhận (hay sự trả giá của người mua)
áp lực cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành.
Đây là 5 yếu tố quyết định khẳ năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường nhưng những yếu tố này mang tính chất "ngoại vi" - hay nói cách khác, đó là những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài đối với khả năng cạnh tranh của một sản phẩm. Còn nếu xét về bản thân nội tại năng lực cạnh tranh quốc tế của một sản phẩm, thì điều trước hết chính là lợi thế so sánh của sản phẩm đó. Lợi thế so sánh của sản phẩm ở đây chủ yếu được nhắc đến là lợi thế so sánh về chi phí sản xuất (nhân công, nguyên vật liệu...) và năng suất. Bởi lẽ các yếu tố chi phí sản xuất thấp thường được coi là điều kiện cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Nếu xét trên phạm vi quốc tế, lợi thế so sánh còn bao gồm cả lợi thế về các điều kiện thuận lợi về giao thông buôn bán quốc tế, cũng như các biện pháp, chính sách của Nhà nước khuyến khích sản xuất, xuất khẩu sản phẩm, kể cả lợi thế về các chi phí bán hàng, xúc tiến yểm trợ, thuế quan v.v .
Nói chung, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế hay cạnh tranh trong nước thường bao gồm cả yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Đối với những yếu tố khách quan tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp cho nên bản thân doanh nghiệp cần phải tìm hiểu và nắm bắt nhanh nhạy để khai thác có hiệu quả thời cơ tốt nhất. Còn với những yếu tố chủ quan thuộc phạm vi kiểm soát của doanh nghiệp (như tài chính, nhân sự, công nghệ..) đây mới là điều quan trọng để chính bản thân mỗi doanh nghiệp tự đánh giá và lượng sức mình trong quyết định vươn ra thị trường thế giới. Tất nhiên, để thắng thế trong cạnh tranh kinh nghiệm thực tế thường cho thấy cần phải hội tụ đủ "Thiên thời, địa lợi, nhân hoà". Tuy nhiên,đối với các doanh nghiệp điều quan trọng là phải biết và hiểu rõ khi nào " thiên thời", khi nào "địa lợi" và "nhân hoà", để đưa ra chiến lược thích hợp giành thắng lợi trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
2.3. Cơ hội và thách thức chủ yếu trong cạnh tranh quốc tế hiện nay.
Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, quan điểm "biết người biết ta" (tri kỉ tri bỉ) lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi có hiểu rõ thị trường mới nắm bắt được cơ hội cũng như đối phó được với những thách thức do cạnh tranh đem lại, giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển được. Vậy trong giai đoạn hiện nay, những cơ hội và thách thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế là gì? Có giải đáp được vấn đề này, doanh nghiệp mới có thể nâng cao được sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình được. Tuy nhiên nói đến cơ hội và thách thức, hai diều này thường có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi lẽ trong cơ hội có thách thức và trong thách thức có cơ hội. Cơ hội cho mình nhưng cũng đồng thời là cơ hội cho đối thủ cạnh tranh của mình, như vậy cơ hội cũng chính là thách thức khi cạnh tranh với đối thủ của mình trên thương trường. Thế nhưng xét một cách tổng thể môi trường cạnh tranh quốc tế hiện nay, có các vấn đề cần chú ý:
Tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế sẽ tạo cơ hội chung cho nền kinh tế, trong đó có ngành dệt may: Các nước tham gia được thực sự hoà nhập vào quĩ đạo chung của nền kinh tế thế giới, tiếp cận một môi trường thương mại quy mô toàn cầu, có hệ thống, tiếp cận với các qui tắc pháp lí công bằng và hiệu quả hơn so với việc giải quyết tranh chấp thương mại nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, đồng thời giúp ta rèn luyện, đào tạo, nâng cao năng lực và kinh nghiệm trong công cuộc hội nhập.
Tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế cũng có nghĩa là được tham gia vào "sân chơi chung", thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng và được hưởng các quy tắc đãi ngộ, giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực (trong đó có dệt may) thâm nhập kịp thời vào các thị trườngkhó tính. Bên cạnh đó, cơ hội "cọ xát" trực tiếp giữa các hàng Việt nam với hàng hoá các nước khác sẽ tạo cơ hội nâng cao sức cạnh tranh của hàng Việt nam, thúc đẩy sản phẩm trong nước cũng như duy trì tốc độ tăng trưởng bền vững của hàng dệt may Việt nam trong nhiều năm tới.
Tuy nhiên, việc tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế chắc chắn sẽ là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam còn non trẻ về trình độ công nghệ cũng như kinh nghiệm thương trường. Thực tế cho thấy, thách thức lớn nhất chính là nguy cơ tụt hậu trong điều kiện cạnh tranh như vũ bão hiện nay.
Đó là nét bao trùm chung của nền kinh tế. Nếu xét v