Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh doanh quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác là phải nâng cao khả năng nhận thức lý thuyết và thực hành Marketing vào kinh doanh.
Ngành Bảo Hiểm là một ngành kinh tế đã phát triển lâu đời trên thế giới và hoạt động của nó mang tính dịch vụ dựa trên quy luật số đông bù số ít. Do vậy việc ứng dụng các nguyên lý Marketing trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là vô cùng cần thiết nhưng không hoàn toàn đơn giản.
Nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đã có những bước tăng trưởng nhất định. Những thành tựu kinh tế này đã có tác động tích đến thị trường Bảo Hiểm Việt Nam. Sự ra đời của Nghị Định 100/NĐ_Chính phủ của Thủ Tướng Chính Phủ vào năm 1993 và đặc biệt là Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 4/2001 được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực đã đánh dấu sự ra đời của một số công ty BHPNT trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường BHPNT nói riêng ngày càng sôi động và khởi sắc. Trước tình hình đó, mỗi công ty bảo hiểm tự nhận thức được tầm quan trọng của Marketing trong hoạt động kinh doanh của mình thông qua những chiến lược, sách lược cạnh tranh có hiệu quả để tồn tại và phát triển.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nên em đã quyết định chọn cho mình đề tài :
“ Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ ở Việt Nam_Kiến nghị và giải pháp “
Trong phạm vi đề tài của mình em không thẻ trình bày hết mọi khía cạnh của vấn đề về Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ tại Việt Nam hiện nay mà chỉ xin tập trung trình bày những nét cơ bản
32 trang |
Chia sẻ: ngatran | Lượt xem: 3228 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ ở Việt Nam_Kiến nghị và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
trang
PHẦN MỞ ĐẦU 3
Chương 1: 4
1.1 Hoạt động của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ 4
1.1.1 Định nghĩa-Chức năng của Bảo Hiểm 4
1.1.2 Vai trò của Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ 4
1.1.3 Xu hướng phát triển kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ 4
1.2 Chức năng và vai trò của Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm: 1.2.1 Khái niệm, tính đặc thù Marketing Bảo Hiểm: 5
1.2.2 Chức năng của Marketing 5
1.3 Vai trò của Marketing Bảo Hiểm 7
1.3.2. Hoạch định chiến lược Marketing: 10
1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động Marketing Bảo Hiểm 1.4.1. Nhân tố chủ quan: 19
1.4.2. Các nhân tố khách quan: 20
1.5. Đánh giá chiến lược Marketing của Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ Việt Nam. 21
Chương 2 22
2.1. Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA 2.1.1. Môi trường hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA 22
2.2 Thực trạng hoạt động Marketing tại Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA. 2.2.1. Tổ chức nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục tiêu: 23
2.2.2. Hoạch định chiến lược Marketing. 24
2.2.3 Hoạt động giao tiếp khuếch trương. 25
2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA 27
2.4. Những tồn tại và nguyên nhân. 27
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng Marketing vào 28
hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA 3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng Marketing vào hoạt động kinh doanh tại Công ty Cổ phần Bảo Hiểm AAA 28
3.1.1. Hình thành bộ phận chuyên trách về Marketing trong mô hình tổ chức 28
3.2.2. Triển khai các hoạt động Marketing: 28
3.3. Kiến nghị : 31
Tài liệu tham khảo
PHẦN MỞ ĐẦU
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vào hệ thống kinh doanh quốc tế và khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam không có sự lựa chọn nào khác là phải nâng cao khả năng nhận thức lý thuyết và thực hành Marketing vào kinh doanh.
Ngành Bảo Hiểm là một ngành kinh tế đã phát triển lâu đời trên thế giới và hoạt động của nó mang tính dịch vụ dựa trên quy luật số đông bù số ít. Do vậy việc ứng dụng các nguyên lý Marketing trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm là vô cùng cần thiết nhưng không hoàn toàn đơn giản. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đã có những bước tăng trưởng nhất định. Những thành tựu kinh tế này đã có tác động tích đến thị trường Bảo Hiểm Việt Nam. Sự ra đời của Nghị Định 100/NĐ_Chính phủ của Thủ Tướng Chính Phủ vào năm 1993 và đặc biệt là Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm 4/2001 được Quốc Hội thông qua và có hiệu lực đã đánh dấu sự ra đời của một số công ty BHPNT trên thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường BHPNT nói riêng ngày càng sôi động và khởi sắc. Trước tình hình đó, mỗi công ty bảo hiểm tự nhận thức được tầm quan trọng của Marketing trong hoạt động kinh doanh của mình thông qua những chiến lược, sách lược cạnh tranh có hiệu quả để tồn tại và phát triển. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nên em đã quyết định chọn cho mình đề tài :“ Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ ở Việt Nam_Kiến nghị và giải pháp “ Trong phạm vi đề tài của mình em không thẻ trình bày hết mọi khía cạnh của vấn đề về Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ tại Việt Nam hiện nay mà chỉ xin tập trung trình bày những nét cơ bản
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm
1.1 Hoạt động của Doanh Nghiệp Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
1.1.1 Định nghĩa-Chức năng của Bảo Hiểm
Bảo hiểm là những quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tập trung - quỹ bảo hiểm - nhằm xử lý các rủi ro, các biến cố. Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường.
Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của số một ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra.
1.1.2 Vai trò của Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
- Bảo toàn vốn sản xuất kinh doanh và ổn định đời sống của người tham gia bảo hiểm;
- Đề phòng và hạn chế tổn thất;
- Bảo hiểm là một công cụ tín dụng;
- Góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm.
1.1.3 Xu hướng phát triển kinh doanh Bảo Hiểm Phi Nhân Thọ
Bảo hiểm Việt Nam chỉ bắt đầu từ năm 1965 với sự ra đời của Bảo Việt. Tuy nhiên thị trường bảo hiểm Việt Nam chuyển mình dần kể từ khi Nghị định 100/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam ra đời, và đặc biệt là Luật kinh doanh bảo hiểm ngày 09/12/2000 đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam.Nếu như trước năm 1993 thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có một mình công ty Bảo Việt thì đến nay Theo thống kê của Cục Quản lý giám sát BH (Bộ Tài chính) thì tính đến nay, tổng số DN BH trên thị trường VN là 53 DN, trong đó có 29 DN BH phi nhân thọ, 12 DN BH nhân thọ, 11 DN môi giới BH và 1 DN tái BH. và các hình thức sở hữu khác nhau :sở hữu nhà nước,công ty lien doanh,công ty cổ phần đã tạo ra một thị trường bảo hiểm sôi động . Năm 1999 mới có 200 sản phẩm bảo hiểm, đến nay đã có gần 700 sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ (trong đó có 3 sản phẩm bảo hiểm bắt buộc). Năm 1999, doanh thu từ bảo hiểm mới đạt 1.700 tỷ đồng thì đến năm 2008, doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 10.879 tỷ đồng (tăng trưởng 30%),Năm 2009, mặc dù ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng doanh thu phi nhân thọ vẫn tăng trưởngước20%(13.100tỷđồng).
1.2 Chức năng và vai trò của Marketing trong hoạt động kinh doanh Bảo Hiểm:
1.2.1 Khái niệm, tính đặc thù Marketing Bảo Hiểm:
Về cơ bản, nhiệm vụ của Marketing trong công ty là làm thỏa mãn tối đa mối quan hệ giữa người tiêu dung sản phẩm của công ty và công ty.
Toàn bộ đặc thù của Marketing bảo hiểm là tính không thể động chạm được của sản phẩm. Người tiêu thụ không thể nhìn thấy, không thể cầm trên tay, không thể chỉ…như mọi dịch vụ, sản phẩm này không thể chạm vào được. Tính đặc thù này rất khó khăn trong việc tiếp cận Marketing; được tăng cường bởi những đặc thù khác làm cho bảo hiểm trở thành một sản phẩm “khác biệt”.
1.2.2 Chức năng của Marketing
Để hiểu tốt các nhiệm vụ và những tác động qua lại của những việc “ chủ chốt” khác nhau của marketing, cần phải xem xét lại một trong ba giai đoạn của chu kỳ và nghiên cứu chi tiết từng giai đoạn ấy.
Nghiên cứu :
Khái niệm nghiên cứu có thể được phân đoạn theo biểu đồ sau :
a
Việc tổng hợp toàn bộ những nghiên cứu phục vụ cho lãnh đạo thị trường để làm sáng tỏ những cơ hội và rủi ro của công ty ở thị trường của anh ta.
Sự lựa chọn :
Dựa vào những kết quả nghiên cứu của giai đoạn trước và theo mối quan hệ những người chủ chốt của công ty (đặc biệt là phòng kỹ thuật bảo hiểm). Lãnh đạo thị trường lập nên sự cung cấp dịch vụ một cách lý tưởng.
Lựa chọn đích từ đó đánh giá khối lượng và nhu cầu
Xác định những đặc điểm của sản phẩm có thể đáp ứng sự mong đợi của đích này :
Dự tính về vị trí của DN trên thị trường với các đối thủ cạnh tranh cùng sản phẩm
Đặt vấn đề “Marketing hỗn hợp” của sản phẩm :
Những tính chất thực của sản phẩm hoặc của các dịch vụ phối hợp
Mặt bằng giá
Phương pháp phân phối, phương pháp bán
Thông tin về sản phẩm, các hoạt động thương mại
Từ đó DN có thể đưa ra quyết định tung ra hay không một sản phẩm
Vai trò của Marketing Bảo Hiểm
Marketing ngày nay đóng một vai trò trung tâm trong việc dịch chuyển thông tin khách hàng thành các sản phẩm, dịch vụ mới và sau đó định vị những sản phẩm này trên thị trường. Các sản phẩm dịch vụ mới là câu trả lời của các công ty trước sự thay đổi sở thích của khách hàng và cũng là động lực của sự cạnh tranh. Nhu cầu của khách hàng thay đổi, các công ty phải đổi mới để làm hài lòng và đáp ứng nhu cầu của khách. Vì vậy Marketing hiện đại có vai trò là:
- Xác định nhu cầu của khách hàng, thiết lập và lãnh đạo tiến trình đổi mới.
- Phối hợp với các hoạt động nghiên cứu và phát triển khác để thúc đẩy tiến trình thực hiện các sản phẩm mới, và nó là nhân tố quan trọng nhất tác động đến thành công của một sản phẩm.
- Giúp doanh nghiệp chỉ ra được những xu hướng mới, nhanh chóng trở thành đòn bẩy, biến chúng thành cơ hội, giúp cho sự phát triển chiến lược và sự lớn mạnh lâu bền của công ty.
1.3 Nội dung cơ bản của Marketing Bảo Hiểm
1.3.1 Nghiên cứu thị trường mục tiêu và xác định thị trường mục tiêu
1.3.1.1 Nghiên cứu thị trường
Nhiệm vụ của việc nghiên cứu là thu thập và phân tích mọi thong tin liên quan đến vấn đề và tổng hợp chúng để mang lại câu trả lời “Marketing” tương đối chính xác và có căn cứ.
Vấn đề đặt ra có thể từ bản chất khác nhau :
Có thể
Rất mở hoặc hoàn toàn đóng
Từ cách “quan sát ” hoặc từ cách “thăm dò”
Trước hết hướng vào sự hiểu biết các ý kiến, những nhu cầu hoặc trước hết “ số hiệu hóa”
Có hai phương pháp nghiên cứu thong thường là :
Nghiên cứu nội bộ : dựa trên tư liệu nội bộ Công ty
Trong đó, có thể nghiên cứu trên thẻ khách hang_phân tích các dữ liệu khác nhau_những cơ sở thăm dò hoặc hội thảo điều tra…tiếp nhận ý kiến từ : khách hang, đại lý, môi giới hoặc những người trung gian khác, Nhân viên kinh doanh đã được hưởng lương.
Nghiên cứu bên ngoài : nghiên cứu tài liệu, hội thảo điều tra,nghiên cứu chất lượng.
Nói chung, những phương pháp chất lượng có mục đích là làm cho những người được hỏi ý kiến biểu hiện một cách tự do và đầy đủ.
Những đặc thù của việc nghiên cứu trong lĩnh vực bảo hiểm :
- Bảo hiểm là một dịch vụ mà sản phẩm không chạm được, với “hậu quả xê dịch” theo thời gian đối với khách hang.
- Thế giới tâm lý của bảo hiểm rất phức tạp. Chia sẻ giữa sự kề cận an toàn hợp lý và mê tín.
- Mối quan hệ giữa người bảo hiểm-người được bảo hiểm được ghi nhận “ nghi ngờ kép”.
- Cuôi cùng nghề bảo hiểm có tiếng là phức tạp và tỏ ra khó giải thích
1.3.1.2 Xác định thị trường mục tiêu:
Công ty phải đánh giá các khúc thị trường khác nhau và quyết định lấy bao nhiêu khúc thị thị trường và những khúc thị trường nào làm mục tiêu. Ta sẽ nghiên cứu những công cụ để đánh gía và lựa chọn các khúc thị trường
Đánh giá các khúc thị trường
Khi đánh giá các khúc thị trường khác nhau, Công ty phải xem xét ba yếu tố cụ thể là quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường, mức độ hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường, những mục tiêu và nguồn tài nguyên của Công ty
Quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường
Câu hỏi đầu tiên là, khúc thị trường tiềm ẩn có những đặc điểm về quy mô và mức tăng trưởng vừa sức không? "Quy mô vừa sức" là một yếu tố có tính tương đối. Những công ty lớn ưa thích những khúc thị trường có khối lượng tiêu thụ lớn và thường coi nhẹ hay bỏ qua những khúc thị trường nhỏ. Những công ty nhỏ thì lại tránh những khúc thị trường lớn, bởi vì chúng đòi hỏi quá nhiều nguồn tài nguyên.
Mức tăng trưởng thường là một đặc điểm mong muốn, vi các công ty, nói chung, đều muốn có mức tiêu thụ và lợi nhuậnngày càng tăng. Song các đối thủ cạnh tranh sẽ nhanh chóng xâm nhập những khúc thị trường đang tăng trưởng và làm giảm đi khả năng sinh lời của chúng.
Công ty phải đánh giá những ảnh hưởng của c ác lực lượng đến khả năng sinh lời lâu dài: Các đối thủ cạnh tranh trong ngành, những kẻ xâm nhập tiềm ẩn, những sản phẩm thay thế, người mua và người cung ứng. Sau đây là năm mối đe doạ do chúng gây ra.
Năng lực lượng quyết định hấp dẫn về cơ cấu của khúc thị trường
Lựa chọn khúc thị trường
Sau khi đã đánh giá khúc thị trường khác nhau, bây giờ công ty phải quyết định nên phục vụ bao nhiêu và những khúc thị trường nào. Tức là vấn đề lựa chọn thị trường mục tiêu. Công ty có thể xem xét năm cách lựa chọn thị trường mục tiêu, gồm: tập trung vào một khác thị trường, chuyên môn hóa chọn lọc, chuyên môn hóa thị truờng, chuyên môn hóa sản phẩm va phục vụ toàn bộ thị trường
1.3.2. Hoạch định chiến lược Marketing:
Phân tích thị trường , như ta đã miêu tả ở trên, được tiến hành trong sự đối chiếu với các mục đích của doanh nghiệp, với việc tiếp cận đầu tiên về khả năng sử dụng kỹ thuật sản phẩm “trả lời”. Phân tích thị trường dẫn đến một tập hợp điều kiện về sản phẩm.
Mục đích của tập hợp điều kiện này là hướng dự án sản phẩm vào đúng 4 yếu tố của hỗn hợp (Mix) :
Sản phẩm : đối với bảo hiểm là : Các đảm bảo và các dịch vụ liên quan
- Giá
- Phân phối : gắn phân phối với các phương pháp thương mại hóa
- Thông tin trao đổi về sản phẩm
Hai đặc trưng cơ bản của 4 phương diện trên là :
- Chúng phụ thuộc lẫn nhau : đó là điều hiển nhiên nhưng đôi khi sự hiển nhiên này cũng không được chú ý lắm. Để tránh dẫn đến “ngõ cụt”, cần phải giám sát sự lien kết các lựa chọn gắn với mỗi yếu tố của Mix.
- Chúng tôn trọng luật “mắt xích nhỏ ”: Bốn yếu tố tạo nên một dây xích trong đó độ bền vững được xác định bởi mỗi mắt xích nhỏ. Thật là vô ích nếu ta hoàn thiện quá đỗi một mắt xích trong khi mắt xích khác “ không đạt chất lượng ”
1.3.2.1. Chiến lược sản phẩm của Bảo Hiểm
Sản phẩm bảo hiểm có những đặc trưng kỹ thuật của sản phẩm về phương diện bảo đảm và dịch vụ lien quan. Bảo hiểm là một dịch vụ nên các phương diện khác nhau này sẽ phải được thử nghiệm dưới dạng khái niệm trong khuôn khổ các thử nghiệm về chất lượng.
Chức năng của marketing là thiết lập một sản phẩm đáp ứng nhất những chờ đợi của một mục đích cụ thể nhất.
Nếu mục đích này được đẩy đến tận cùng, nó sẽ không thích ứng với khái niệm bảo hiểm bởi nó sẽ quay lại yêu cầu một sản phẩm rất “điển hình” mà chỉ được những người có rủi ro lớn trong lĩnh vực lien quan ghi nhận
Quản lý sản phẩm – cơ sở thông tin :
Trong lĩnh vực bảo hiểm cơ sở thong tin sản phẩm trở nên rất quan trọng. Nó đem lại rất nhiều lợi ích cho những người sử dụng và cho phép họ tặng dịch vụ chất lượng cho khách hang trong lúc ký hợp đồng, cũng như trong lúc khai báo tổn thất.
Nó cũng phải cho phép những người có trách nhiệm về kỹ thuật sản phẩm nắm được một cách dễ dàng các kết quả.
Như vậy, cơ sở thong tin phải là một phần có thể nhìn thấy được . Từ đó, phát triển thong tin sản phẩm là một giai đoạn nặng nhọc và kéo dài. Cùng với việc hình thành mạng lưới phân phối nó là một phần của các nút nghẹt của dạng dự kiến này. Các định hướng này phải được nêu lên, nhất là dưới góc độ “phục vụ khách hang” nằm hoàn toàn trong tập các điều kiện.
Tên :
Tên được sử dụng phải đáp ứng các điều kiện sau : Những người tiêu thụ có thể đọc được tên này một cách dễ dàng. Đặc biệt chú ý đối với các sản phẩm nước ngoài. Dù là sản phẩm của nước nào, nếu có cùng cách đọc là lý tưởng nhất.
Tên phải dễ nhớ
Tên phải gợi sản phẩm và gợi sự thỏa mãn nhu cầu lien quan
Tên phải thu hút cho mục đích đã định
Tên phải dễ sử dụng trong khuôn khổ trao đổi thông tin.
Có nhiều ý kiến cho rằng nên đưa tên công ty vào tên sản phẩm
1.3.2.2. Chiến lược giá
Xác định giá của sản phẩm phải bắt nguồn từ sự đan chéo 3 phân tích sau:
Giá thành của sản phẩm
Giá mà khách hang sẵn sang mua sản phẩm (giá “tâm lý”)
Giá các sản phẩm cạnh tranh.
Giá thành :
Đối với một sản phẩm bảo hiểm, yếu tố lớn nhất để tạo nên giá thành là giá kỹ thuật. Theo cơ chế đảm bảo cân bằng, nếu biểu giá cao thì sự chống lựa chọn sẽ tăng lên và chỉ những khách hang thực sự “ dưới rủi ro” mới cần thiết mua.
Như vậy, tổng chi phí cho tổn thất sẽ có giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị ta thu được khi biểu phí thấp.
Ngoài ra , ta còn có các yếu tố khác tạo nên giá thành:
- Chi phí phân phối và thương mại, bao gồm cả chi phí lập các mạng lưới phân phối
- Chi phí cho trao đổi thong tin
-Chi phí khấu hao cho phát triển sản phẩm
- Chi phí vận hành lien quan đến phát triển sản phẩm
- Giới hạn chi phí của công ty
- Chi phí cho thuế
Người ta chia tất cả các chi phí vừa liệt kê phía trên thành 2 loại : Chi phí cố định và chi phí không cố định.
Giá tâm lý : có thể hiểu là một biên độ cực đại của các giá có thể áp dụng được. Về lý thuyết mỗi giá đồng nhất với một đánh giá về số và chất lượng của người tiêu thụ dẫn đến việc sẵn sang mua sản phẩm với giá đó.
Đặc biệt đối với bảo hiểm, một lĩnh vực mà những người tiêu thụ ít biết đến thì giá cả không mấy cụ thể.
Giá cạnh tranh: Việc phân tích giá cạnh tranh là rất cần thiết khi sản phẩm tung ra đang có trên thị trường.
Vòng sai – vòng đúng :
Ta có thể hình dung rằng khi tăng giá của sản phẩm thì khả năng sinh lời của sản phẩm sẽ tăng lên.
Trong bảo hiểm thì không phải lúc nào cũng đúng như vậy,nhất là khi giá cố định bắt đầu một vòng một vòng sai sau đây :
- Giá bán cao, không cạnh tranh
- Sản phẩm bán không chạy
Mạng lưới phân phối đòi hỏi quyền tự do định giá và các điều kiện ký kết rộng hơn.
Một mặt tính đến sự không cạnh tranh ở bề ngoài, mặt khác tính đến sự ký kết “co giãn” và sự tự do định giá được sử dụng trên phương diện thương mại chứ không phải trên phương diện kỹ thuật thì hiện tượng chống lựa chọn xuất hiện :
Các hợp đồng nằm trong trường hợp này nếu là các rủi ro xấu hoặc các hợp đồng này được áp dụng biểu giá quá thấp.
Các kết quả kỹ thuật là xấu và dẫn đến việc tăng biểu phí lên cao. Điều này còn làm trầm trọng hơn [Type a quote from the document or the summary of an interesting point. You can position the text box anywhere in the document. Use the Text Box Tools tab to change the formatting oe pu l1.Giá cao
5.Kết quả kỹ thuật xấu 2. Việc bán khó khăn
VÒNG SAI
4. Chống lựa chọn 3. Việc ký kết không gò bó + quyền tự do định giá
Trái lại, nếu giá đã được lựa chọn một cách sáng suốt sẽ cho phép ta bước vào một vòng đúng :
Giá hấp dẫn 1: sản phẩm sẽ bán chạy 2 và công ty sẽ không gặp khó khăn khi bắt mạng lưới phân phối tuân thủ các điều kiện chặt chẽ về ký kết và thu hẹp quyền tự do định giá 3. Từ đó, các rủi ro được lựa chọn và định giá đúng. Các kết quả kỹ thuật sẽ cho phép hoàn thiện them tính chất cạnh tranh của biểu giá
1.Giá cạnh tranh
5.Kết quả kỹ thuật tốt 2.Bán chạy dễ dàng
VÒNG ĐÚNG
4.Các rủi ro được lựa chọn và đánh giá đúng 3.Duy trì các điều kiện chặt chẽ về ký kết: có một chút hoặc không có quyền định giá
1.3.2.3. Chiến lược phân phối
Có 6 loại phân phối bảo hiểm chính:
- Bán trực tiếp
- Các lực lượng bán, hưởng lương
- Các văn phòng bán
- Các đại lý
- Các môi giới
- Các mạng lưới phân phối “kết hợp” (ngân hang,siêu thị,…)
Chọn lựa một hoặc nhiều mạng lưới phân phối phù hợp với sản phẩm hoặc có thể lập một mạng lưới mới.
Đưa vào mạng lưới các phương pháp thương mại hóa.
Bán trực tiếp
Khách hang có mối quan hệ trực tiếp với phòng quản lý hợp đồng-phòng này trực thuộc công ty.Sử dụng phương pháp này đưa lại kết quả to lớn nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm xe cơ giới.
Lực lượng bán bảo hiểm hưởng lương
Có thể sử dụng lực lượng này một cách uyển chuyển nếu không có sự quy định chặt chẽ của quốc gia trong lĩnh vực quản lý nhân sự.Một số nhỏ trong số họ hoặc đôi khi tất cả được trả lương dưới dạng hoa hồng. Dạng phân phối này phù hợp với các sản phẩm mà sự quản lý ít “ thường xuyên ”
Các văn phòng bán
Vẫn làm chủ hoàn toàn về bán và quản lý hợp đồng, sử dụng các văn phòng bán cho phép sự tổ chức có “hiệu quả” hơn.
Người thăm dò đến văn phòng để lấy thong tin chỉ dẫn và ký hợp đồng, trở thành khách hang.Cũng chính tại đây anh ta sẽ quay lại để khai báo tổn thất hoặc lập văn bản sửa đổi.
Đại lý
Đại lý là một chuyên nghiệp tự do của công ty bảo hiểm. Anh ta đại diện cho một công ty và chỉ một mà thôi.Nghề “đại lý” do quy định của nhà nước chi phối.
Đại lý là người được công ty ủy quyền, đại diện cho công ty và cam kết với công ty bằng sự ký kết. Ngoài ra, đại lý có thể được ủy quyền về toàn bộ hoạt động thương mại và quản lý hợp đồng.
Một đại lý có thể được gửi gắm các hoạt động:
- Thương mại hóa các sản phẩm
- Ký kết hợp đồng
- Quản lý và bồi thường tổn thất
- Thu phí và cấp biên lai hoặc các giấy tờ hành chính.
Môi giới
Môi giới là người được ủy quyền của khách hang chứ không phải người ủy quyền của công ty. Sauk hi nghiên cứu khách hang, an